ảnh hưởng của văn học dân gian đến văn học viết

Văn học dân gian là nền tảng của văn học viết, là giai đoạn đầu tiên của nền văn học dân tộc. Khi chưa có chữ viết, văn học Việt Nam chỉ có văn học dân gian; Khi có chữ viết, văn học Việt Nam gồm hai bộ phận: văn học dân gian và văn học viết.

Bạn đang xem: ảnh hưởng của văn học dân gian đến văn học viết

Văn học viết chịu ảnh hưởng của văn học dân gian về nhiều mặt

Văn học viết chịu ảnh hưởng của văn học dân gian trên nhiều phương diện, từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật. Văn học viết cũng có tác động đến văn học dân gian theo một số cách. Mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết cũng như vai trò, ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học được thể hiện đầy đủ hơn cả trong lĩnh vực sáng tác và bộ phận thơ quốc âm.

Nhận xét về ảnh hưởng to lớn của văn học dân gian đối với văn học viết Việt Nam, SGK Văn học dân gian nhận xét: "Văn học dân gian là cội nguồn, là bầu sữa nuôi dưỡng nền văn học dân tộc Việt Nam. Nhiều thể loại văn học viết được xây dựng và phát triển trên cơ sở kế thừa văn học dân gian nhiều tác phẩm, nhiều hình tượng do văn học dân gian sáng tạo, là nguồn cảm hứng, là thơ ca, là tài liệu của văn học thành văn Nhiều nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc (Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh,....) đã tiếp thu những kết quả văn học dân gian để sáng tạo nên những tác phẩm văn học đặc sắc”. đến thời hiện đại.

Đó là nhận định xác đáng, thể hiện rõ mối quan hệ khăng khít giữa văn học dân gian và văn học viết trong suốt quá trình phát triển của nền văn học dân tộc. Văn học dân gian là nền tảng của văn học viết và có tác động to lớn đến sự hình thành và phát triển của văn học viết.

Về nội dung

Văn học dân gian cung cấp cho các nhà văn mọi thời đại những quan niệm xã hội, đạo đức của nhân dân lao động và của các dân tộc. Ngoài ra, nó còn cung cấp những kiến ​​thức bổ ích về tự nhiên xã hội, góp phần quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người. Nó giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc như truyền thống yêu nước, tinh thần hướng thiện, trọng nhân nghĩa, giàu tình thương… Biểu hiện rõ nét nhất là ở đề tài, cảm hứng, tư tưởng. lòng nhân ái, lạc quan, yêu đời, yêu thiên nhiên, đất nước, yêu con người, v.v.

Đề tài tiêu biểu trong văn học dân gian

Số phận người phụ nữ, thân phận người lao động nói chung, tình yêu đôi lứa, những kinh nghiệm sống quý báu, đặc biệt ca ngợi tình cảm yêu quê hương, đất nước,…

Cảm hứng

Văn học dân gian thường lấy cảm hứng từ thiên nhiên, đời sống xã hội, lao động sản xuất,… Đặc biệt, ca dao Việt Nam đã đưa ra những tiêu chí về vẻ đẹp của người con gái truyền thống.

Suy nghĩ về lòng nhân từ

Văn học dân gian đề cao tình yêu thương con người, nhất là thân phận người phụ nữ, người lao động khổ cực, v.v.

Về mặt nghệ thuật

Văn học dân gian cung cấp cho nhà văn một kho tàng truyền thống nghệ thuật dân tộc, từ ngôn ngữ đến thể thơ, thủ pháp xây dựng nhân vật, hình ảnh, phát ngôn, biện pháp tu từ. , thể loại, chất liệu dân gian,...

Ngôn ngữ

Ngôn ngữ văn học dân gian giàu chất triết lí, giàu chất thơ nhưng hình thức diễn đạt gần gũi, dễ hiểu. Người đi làm thường sử dụng những cách diễn đạt trong giao tiếp hàng ngày để bộc lộ tâm tư, tình cảm cũng như rút ra kinh nghiệm sống.

Ví dụ: Tục dùng lá trầu làm ngôn ngữ để bộc lộ tình cảm:

Đi thang hái trầu vàng
Trầu têm muộn màng, anh yêu em”.

Tôi chỉ hỏi bạn bây giờ
Trầu cau vàng với trầu xanh như thế nào?

Cau xanh trầu vàng,
Tình anh sánh đôi đẹp duyên.

Hình ảnh

Trong văn học dân gian, hầu hết là những cảnh thiên nhiên hay cuộc sống đời thường đều rất quen thuộc với người bình dân. Trong cuộc sống hàng ngày, người dân lao động đã rất quen thuộc với mái đình, cây đa, bến đò… nên trong tình yêu đôi lứa, trong nỗi nhớ quê hương… người lao động đã tái hiện lại những không gian đó. . quen thuộc trong lời bài hát của anh ấy:

“Anh đi anh nhớ quê hương
Nhớ canh rau nhớ canh đậu đắng
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Hôm nay nhớ ai tát nước bên đường”.
(Dân gian)

Xem thêm: nacl ra na

cách nói

Các hình thức lặp là đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu trong ca dao: lặp cấu trúc, hình ảnh, lặp câu mở đầu hoặc một từ, một cụm từ, v.v.

Ví dụ :

Cho thuyền, cho bến, cho sông
Vì hoa nên ong bận về nhà.

Còn trẻ, còn nước, còn trời
Và cô ấy bán rượu và mọi người say rượu.

Yêu nhau leo ​​núi
Mấy lần lội sông, cũng mấy lần đi qua.
(Dân gian)

biện pháp tu từ

Văn học dân gian thường sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa… giúp hình dung cụ thể qua những hình ảnh quen thuộc như hạt mưa, tấm lụa đào, cái giếng. , cây đa, bến nước, con đò, con đò,…

Trong ca dao:

Thuyền có nhớ bến không?
Bến là một dạ khăng khăng chờ đò.

Trúc khuyên mai, bến dặn thuyền
Nghe ai quyến rũ bạn để dỡ bỏ lời nguyền của bạn.

Bến chỉ thuyền, lũy tre chỉ ngày mai
Nghe ai có duyên, đừng quanh đây.

“Lái thuyền tình
Mười hai bến biết gửi thân nơi nào”.

Loại

Hơn 90% ca dao sử dụng thể lục bát hoặc lục bát biến thể. Trong ca dao còn có thể kể đến các thể thơ khác như: Song thất lục bát, Vạn tứ, Vạn ngũ. Nguyễn Du đã rất thành công trong việc sử dụng thể thơ lục bát dân tộc với tác phẩm “Truyện Kiều”. Ngoài ra còn có một số tác phẩm văn học viết cũng sử dụng thể thơ dân tộc này: “Lục Vân Tiên” (Nguyễn Đình Chiểu), “Thất bước” (Nguyễn Bính),….

Chất liệu dân gian

Nhà thơ đã sử dụng rất linh hoạt chất liệu dân gian trong tác phẩm của mình:
Câu thơ:

Tay ai đang đút cho miệng?
Lười ngồi ăn lở núi.
(Nguyễn Trãi)

Gợi nhớ hai câu tục ngữ: “Tay làm hàm nhai, tay làm miệng trễ”, “Miệng ăn núi lở”.

*

Như vậy, trong quá trình phát triển, hai bộ phận văn học dân gian và văn học viết luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động, bổ sung, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Văn học dân gian là nền tảng để tiếp thu văn học viết. Ngược lại, văn học viết có tác dụng làm phong phú, đa dạng văn học dân gian.

Xem thêm: naalo2 hcl h2o

S.T