Những kiến thức về hai tác phẩm Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn và Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn sẽ giúp các em hoàn thành đề tài khóa luận, nêu được suy nghĩ của mình về đề tài. Vai trò của nhà lãnh đạo thông minh cho đất nước. Dưới đây là một số bài văn mẫu các em có thể tham khảo để có thêm gợi ý cho bài làm của mình.
Bạn đang xem: dựa vào các văn bản chiếu dời đô và hịch tướng sĩ hãy nêu suy nghĩ của em về vai trò
Đề tài
Dựa vào văn bản Chiếu dời đô và Vị tướng nào, em hãy nêu suy nghĩ của mình về vai trò của người anh minh lãnh đạo.
——————
Hướng dẫn làm bài tập về nhà Suy nghĩ của em về vai trò của các thủ lĩnh Anh Minh dựa trên văn bản Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ
Trước khi làm bài, các em có thể xem lại kiến thức đã học về hai tác phẩm Hịch tướng sĩ và Hịch tướng sĩ để có tư liệu làm bài viết mạch lạc, hấp dẫn hơn.
Đầu tiên. Phân tích các chủ đề
– Yêu cầu đề bài: qua hai tác phẩm “Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ” nêu nhận xét về vai trò của người anh minh lãnh đạo đất nước.
– Đối tượng kiểm tra: các vị lãnh tụ anh hùng trong 2 tác phẩm Hịch tướng sĩ và Hịch tướng sĩ
- Cách thức làm bài: phân tích
2. Ý chính cần triển khai
Đối số 1 : Phẩm chất của một nhà lãnh đạo khôn ngoan
Lập luận 2: Vai trò của một vị vua đối với vận mệnh đất nước
Lập luận 3: Vai trò của tướng đối với vận mệnh đất nước trong thời loạn, nguy
3. Làm một bản phác thảo
A. Giới thiệu : Dẫn dắt vấn đề
B. Thân :
1. Phẩm chất của một nhà lãnh đạo khôn ngoan
- Có tầm nhìn xa trông rộng.
- Có lòng yêu nước, yêu nhân dân.
- Kiến thức rộng rãi, sâu sắc.
– Luôn khôn ngoan, thông minh, công bằng….
2. Vai trò của một vị vua đối với vận mệnh đất nước.
- Vua Lý Thái Tổ là vị vua khai sinh ra triều đại nhà Lý - một triều đại thịnh trị trong lịch sử dân tộc.
Hòa bình được hòa, đất nước đang trong giai đoạn xây dựng và phát triển, vua Lý Thái Tổ đã nhìn thấy những khuyết điểm của kinh đô Hoa Lư và những ưu điểm, tương lai của đất Thăng Long. Chính nhờ tầm nhìn xa trông rộng của nhà vua mà đất nước mới có điều kiện phát triển phồn thịnh nhất có thể.
– Vua Lý Thái Tổ đã khéo thuyết phục nhân dân và quan lại dời đô:
+ Nhắc lại các triều đại dời đô thành công trong lịch sử Trung Quốc: Thương, Chu.
+ Phân tích những hạn chế của vùng đất Hoa Lư và sự bảo thủ của các triều đại Đinh, Lê
+ Phân tích lợi thế của vùng Thăng Long
⇒ Trong thời đại đất nước đang trên đà phát triển hưng thịnh, vua Lý Thái Tổ với kiến thức sâu rộng về địa lý, phong thủy, tầm nhìn xa trông rộng, lòng yêu nước, thương dân, khát khao cống hiến cho đất nước. đất nước đưa ra quyết định dời đô – qua đó tạo nên bước ngoặt mạnh mẽ trong lịch sử dân tộc ta.
3. Vai trò của một vị tướng đối với vận mệnh đất nước trong chiến tranh và hiểm nguy.
– Trần Quốc Tuấn là vị tướng tài dưới thời vua Trần Nhân Tông, có công lớn trong 2 cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên năm 1285 và 1287.
– Nhận thấy thế và lực của quân ta đang đi xuống, Trần Quốc Tuấn liền làm bài “Hịch tướng sĩ” để khích lệ tinh thần nghĩa quân, lập nên chiến công oai hùng chống quân Mông – Nguyên. Đó là một hành động vô cùng cần thiết và hợp lý, đánh vào lòng yêu nước và căm thù giặc của mọi binh lính, phát động cuộc đấu tranh trong cả nước.
– Trần Quốc Tuấn không chỉ nắm được chỗ yếu của địch mà còn nắm được chỗ yếu, chỗ mạnh của quân ta, khiến trận đánh có sức thuyết phục và tác động mạnh mẽ đến toàn quân.
– Sự am tường binh pháp, tài cầm quân, nắm bắt thời cơ tốt và lòng trung nghĩa yêu nước của Trần Quốc Tuấn là chìa khóa giúp ta giành thắng lợi trước kẻ thù mạnh và hung hãn như quân Nguyên Mông. Nguyên bản.
4. Thảo luận
– Cả Lý Thái Tổ và Trần Quốc Tuấn đều là những nhà lãnh đạo anh minh, sáng suốt, hội tụ mọi phẩm chất ưu tú của dân tộc, có công lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước trong lịch sử. Quốc gia.
– Nếu vua không sáng, tướng không giỏi thì chắc chắn nước đó sẽ sớm suy vong, không thể phát triển.
C. Kết luận:
– Khẳng định lại vai trò to lớn của người lãnh đạo đối với vận mệnh của đất nước.
- Liên quan đến thời hiện đại
4. Sơ đồ tư duy
Văn bản mẫu để tham khảo Suy nghĩ về vai trò của những nhà lãnh đạo thông minh
Bài văn mẫu 1
Đối với một quốc gia, nói đến những người lãnh đạo đất nước là nói đến những người đứng đầu bộ máy hành chính nhà nước hay các tổ chức quân sự, văn hóa...
Đứng trên cương vị người lãnh đạo, trước hết họ phải là người nhìn xa trông rộng, đánh giá đúng tình hình đất nước, từ đó xác định đúng nhiệm vụ của cả dân tộc.
Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn đều là những nhà lãnh đạo tài ba, uyên bác, thông hiểu Đông Tây. Vị vua đầu tiên của nhà Lý nêu gương dời đô là vua Bành Cảnh nhà Thương, nhà Chu. Trần Quốc Tuấn lại nêu gương những bậc anh hùng biết xả thân vì tướng vì nước: Đỗ Vũ, Dư Nhượng, Kỷ Tín v.v… Có thể nói, biết “điều độ” để “tri tân” là một trong những phẩm chất không thể thiếu của một nhà lãnh đạo. Và từ việc “nhớ chuyện xưa”, nhà lãnh đạo tài ba đã thể hiện được cái thiên tài “biết chuyện mới, chuyện thời sự” một cách vô cùng tài tình.
Nhà Đinh, nhà Lê “không nối gót Thương Chu xưa” giữ vị trí đóng đô ở Hoa Lư, nhưng Hoa Lư chỉ là nơi hiểm trở, khắc nghiệt. Điều đó khiến cho vận mệnh của đất nước gặp rất nhiều khó khăn. Lịch sử cũng đã chứng minh rằng, hai triều đại Đinh Lê ngắn ngủi, nhân dân gặp muôn vàn khó khăn. Có thể nói, việc phê phán hai triều đại Đinh, Lê đã thể hiện phần lớn tầm nhìn lãnh đạo của Lý Công Uẩn. Ông thấy rõ một thực tế quan trọng: đất nước đang bước vào thời kỳ hòa bình, Hoa Lư không còn phù hợp với tư cách kinh đô!
Trần Quốc Tuấn cũng vậy. Từ sự kiện quân Nguyên Mông xâm lược nước ta lần thứ nhất và thái độ của chúng lúc này, Người hiểu rõ sự nguy hiểm của một cuộc chiến tranh chống xâm lược. Sang nước ta, quân Nguyên Mông “uốn lưỡi cú diều mắng triều đình, bắt nạt cha bằng thân dê chó”, “dũng cảm bước đi”, bắt nhân dân ta phải cống nộp khoáng sản, vàng bạc. bạc v.v… Rõ ràng chúng chưa thấm thía bài học thất bại của cuộc xâm lược lần thứ nhất và đang âm mưu một cuộc chiến tranh cướp nước lần thứ hai.
Địch như vậy, còn quân ta thì sao? Vị nguyên soái tài ba thêm một lần đau xót khi chứng kiến quân lính dưới quyền lơ là cảnh giác trước nguy cơ nước mất nhà tan. Họ “hoặc thích chọi gà, hoặc thích ca hát”, chơi cờ... Ông cay đắng chỉ ra rằng khi giặc đến, những thú vui đó chỉ trở thành tai họa “cựa gà không chọc thủng giáp giặc”. , “hát hay không thể làm cho quân địch điếc tai”, “mưu cờ không thể dụng binh”...
Xem thêm: nh4no3 nhiệt độ
Từ sự thấu hiểu tình hình đất nước, các đồng chí lãnh đạo đã xác định rõ nhiệm vụ của quân đội và nhân dân. Điều quan trọng là họ phải có những quyết sách đúng đắn, những hành động táo bạo để đưa đất nước đến bến bờ hòa bình và phát triển.
Lý Thái Tổ xác định nhiệm vụ lúc này là dời đô khỏi Hoa Lư. Nhưng dời đô về đâu? “Thành Đại La.. là trung tâm của trời đất, nơi rồng cuộn hổ ngồi nhìn núi sông, cư dân không lam lũ, vạn vật trù phú tươi tốt. Nhìn khắp nước Việt ta chỉ có nơi này như một thánh địa Từ nhận thức sâu sắc về lợi thế của thành Đại La đối với sự phát triển của đất nước, Lý Thái Tổ đã có quyết định đúng đắn khi chọn kinh đô của vùng đất văn hiến này.
Trần Quốc Tuấn trên cương vị là Tổng tư lệnh cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông đã khẳng định ý chí đánh giặc của toàn dân tộc và động viên, khích lệ tinh thần chiến đấu của quân sĩ. Bác căn dặn chiến sĩ phải biết “canh nóng rau nguội”, phải biết khổ luyện để sẵn sàng chiến đấu. Không những thế, ông còn soạn thảo “Binh pháp thi thư” như một binh pháp để binh sĩ luyện tập và rèn giũa.
>> Lập dàn ý nghị luận về vai trò của các thủ lĩnh anh hùng qua Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ
Bài văn mẫu 2
Đối với một quốc gia, nói đến những người lãnh đạo đất nước là nói đến những người đứng đầu bộ máy hành chính nhà nước hay các tổ chức văn hóa, quân sự. Đứng trên cương vị người lãnh đạo, trước hết họ phải là người nhìn xa trông rộng, đánh giá đúng tình hình đất nước, từ đó xác định đúng nhiệm vụ của cả dân tộc.
Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn đều là những nhà lãnh đạo tài ba, uyên bác, thông hiểu Đông Tây. Vị vua đầu tiên của nhà Lý nêu gương dời đô là vua Bành Cảnh nhà Thương, nhà Chu. Trần Quốc Tuấn lại nêu gương những bậc anh hùng biết xả thân vì tướng vì nước: Đỗ Vũ, Dư Nhượng, Kỷ Tín v.v… Có thể nói, biết “điều độ” để “tri tân” là một trong những phẩm chất không thể thiếu của một nhà lãnh đạo. Và từ việc “nhớ chuyện xưa”, nhà lãnh đạo tài ba đã thể hiện được cái thiên tài “biết chuyện mới, chuyện thời sự” một cách vô cùng tài tình.
Nhà Đinh, nhà Lê “không nối gót Thương Chu xưa” giữ vị trí đóng đô ở Hoa Lư, nhưng Hoa Lư chỉ là nơi hiểm trở, khắc nghiệt. Điều đó khiến cho vận mệnh của đất nước gặp rất nhiều khó khăn. Lịch sử cũng đã chứng minh rằng, hai triều đại Đinh Lê ngắn ngủi, nhân dân gặp muôn vàn khó khăn. Có thể nói, việc phê phán hai triều đại Đinh, Lê đã thể hiện phần lớn tầm nhìn lãnh đạo của Lý Công Uẩn. Ông thấy rõ một thực tế quan trọng: đất nước đang bước vào thời kỳ hòa bình, Hoa Lư không còn phù hợp với tư cách kinh đô!
Trần Quốc Tuấn cũng vậy. Từ sự kiện quân Nguyên Mông xâm lược nước ta lần thứ nhất và thái độ của chúng lúc này, Người hiểu rõ sự nguy hiểm của một cuộc chiến tranh chống xâm lược. Sang nước ta, quân Nguyên Mông “uốn lưỡi cú diều mắng triều đình, bắt nạt cha bằng thân dê chó”, “dũng cảm bước đi”, bắt nhân dân ta phải cống nộp khoáng sản, vàng bạc. bạc v.v… Rõ ràng chúng chưa thấm thía bài học thất bại của cuộc xâm lược lần thứ nhất và đang âm mưu một cuộc chiến tranh cướp nước lần thứ hai.
Địch như vậy, còn quân ta thì sao? Vị nguyên soái tài ba thêm một lần đau xót khi chứng kiến quân lính dưới quyền lơ là cảnh giác trước nguy cơ nước mất nhà tan. Họ “hoặc thích chọi gà, hoặc thích ca hát”, chơi cờ... Ông cay đắng chỉ ra rằng khi giặc đến, những thú vui đó chỉ trở thành tai họa “cựa gà không chọc thủng giáp giặc”. , “hát hay không thể làm cho quân địch điếc tai”, “mưu cờ không thể dụng binh”...
Từ sự thấu hiểu tình hình đất nước, các đồng chí lãnh đạo đã xác định rõ nhiệm vụ của quân đội và nhân dân. Điều quan trọng là họ phải có những quyết sách đúng đắn, những hành động táo bạo để đưa đất nước đến bến bờ hòa bình và phát triển.
Lý Thái Tổ xác định nhiệm vụ lúc này là dời đô khỏi Hoa Lư. Nhưng dời đô về đâu? “Thành Đại La.. là trung tâm của trời đất, nơi rồng cuộn hổ ngồi nhìn núi sông, cư dân không lam lũ, vạn vật trù phú tươi tốt. Nhìn khắp nước Việt ta chỉ có nơi này như một thánh địa Từ nhận thức sâu sắc về lợi thế của thành Đại La đối với sự phát triển của đất nước, Lý Thái Tổ đã có quyết định đúng đắn khi chọn kinh đô của vùng đất văn hiến này.
Trần Quốc Tuấn trên cương vị là Tổng tư lệnh cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông đã khẳng định ý chí đánh giặc của toàn dân tộc và động viên, khích lệ tinh thần chiến đấu của quân sĩ. Bác căn dặn chiến sĩ phải biết “canh nóng rau nguội”, phải biết khổ luyện để sẵn sàng chiến đấu. Không những thế, ông còn soạn thảo “Binh pháp thi thư” như một binh pháp để binh sĩ luyện tập và rèn giũa.
>> xem thêm : Chứng minh Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đã thể hiện sâu sắc tinh thần yêu nước …
Bài văn mẫu 3
Để đưa đất nước ngày càng tiến bộ thì vai trò của những người đứng đầu là vô cùng quan trọng. Nhìn lại lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta càng khẳng định tầm quan trọng của những vị vua, vị tướng tài ba đã đưa dân tộc ta đến con đường giành độc lập. Đọc lại Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn và Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, chúng ta càng thấy rõ vai trò của người lãnh đạo anh hùng có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của dân tộc dù là nơi đất khách. đất nước lâm nguy hay thái bình, thịnh trị.
Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn đều là những nhà lãnh đạo tài ba, uyên bác, hết lòng vì nước vì dân. Cả hai ông đều là những nhà lãnh đạo sáng suốt khi nhìn rõ tình hình đất nước, xác định rõ nhiệm vụ của quân và dân. Điều quan trọng là họ phải có những quyết sách đúng đắn, những hành động táo bạo để đưa đất nước đến bến bờ hòa bình và phát triển.
Trần Quốc Tuấn là một vị tướng tài ba. Vị tướng tài Trần Quốc Tuấn đã có những chiến công hiển hách bởi ông quan tâm đến vận mệnh của đất nước bằng trái tim và ý chí của một vị anh hùng dân tộc. Cái tâm và cái tài của một vị tướng, một người con yêu nước, trung với vua được thể hiện rõ nét trong áng văn bất hủ “Hịch tướng sĩ”. Trước thảm họa đang đến gần: quân Mông – Nguyên xâm lược lần thứ hai với dã tâm không để một ngọn cỏ của Đại Việt mọc dưới vó ngựa của năm mươi vạn quân. Trần Quốc Tuấn viết "Hịch" kêu gọi tướng sĩ một lòng một dạ đối mặt với cuộc chiến sống còn. Bằng ngôn từ mạnh mẽ, ông miêu tả hàng loạt tội ác của quân Mông Cổ: “uốn lưỡi mắng triều đình, ức hiếp cha bằng thân dê chó”, “dối trá”, cưỡng bức nhân dân ta. cống nạp khoáng sản, vàng bạc… Quân ta thì sao? Vị nguyên soái tài ba thêm một lần đau xót khi chứng kiến cảnh quân sĩ dưới quyền buông lỏng cảnh giác trước nguy cơ mất nước, “nghe nhạc Thái Thượng đãi yến sứ ngụy mà không biết hận”, “hay như chọi gà”. , hay mê hát", chơi cờ. Lo lắng cho hoàn cảnh của những người lính lúc bấy giờ, họ hiểu rõ rằng yếu tố "nhân tâm" là quan trọng, nhân tâm đôi khi quyết định tất cả. Ông mượn những tấm gương của những người lính trung kiên đã hy sinh quên mình vì nước, vì dân để khích lệ lòng tự trọng ở người lính, một lần nữa bộc bạch nỗi lòng của ông khi ông không khỏi lo lắng, đến độ quên ăn, mất ngủ, ruột gan như đứt đoạn: “ Thường quên ăn cơm, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ hận mình chưa lột da nuốt gan, uống máu đồng loại. kẻ thù." Không chỉ trăn trở, căm thù quân xâm lược, Người còn nguyện xả thân vì sự nghiệp đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc: “Dẫu thân này trâm phơi cỏ, ngàn xác này bọc trong da ngựa , tôi cũng rất vui." Cũng chính nhờ những lời nói xuất phát từ tình cảm chân thành của ông mà ông đã thắp lên ngọn lửa yêu nước trong lòng họ.
Vị tướng đã vạch ra trước mặt người lính của mình hai con đường, hoặc là nhà tan cửa nát, hoặc là vinh quang và chiến thắng muôn đời của dân tộc. Điều đặc biệt trong bài là Trần Quốc Tuấn không hề tỏ ra gượng ép, ông vạch ra rõ ràng hai con đường, và sự lựa chọn thuộc về kẻ sĩ. Trong thời chiến, một dân tộc không chỉ phải đối mặt với gươm giáo, súng đạn mà còn phải đối mặt với một kẻ thù nguy hiểm hơn, đó là tinh thần của người lính và người dân. Nếu cả dân tộc không đoàn kết, quyết tâm đánh giặc thì vũ khí, gươm giáo hiện đại đến đâu cũng không đánh thắng được quân thù. Cũng như vậy, thời gian hòa hoãn kéo dài giữa hai cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông giống như liều thuốc độc làm hao mòn tinh thần chiến đấu, là cái bẫy vô hình làm thui chột nhuệ khí của quân sĩ, là màn sương mù che khuất ý chí đánh giặc. Là một nhà cầm quân, Trần Quốc Tuấn đã dùng cả tấm lòng của mình để xua tan màn sương tai ương, góp phần to lớn làm nên khí thế “Sát thất” vang danh sử sách. Danh tướng Trần Quốc Tuấn là hình ảnh tiêu biểu cho những phẩm chất của một người chính trực cần có trong thời chiến, đồng thời là minh chứng cho vai trò của người ngồi trên ngôi cao đối với toàn quân trước hiểm nguy. của quôc gia.
Vai trò của các nhà lãnh đạo không chỉ được yêu cầu trong thời chiến mà còn được yêu cầu nhiều hơn trong thời bình. Một trong những ví dụ thể hiện rõ vai trò quan trọng của người lãnh đạo. Người đứng đầu đất nước trong thời bình là vua Lý Công Uẩn - người đầu tiên lập ra triều đại nhà Lý ở nước ta. Ông là người anh minh, nhân ái, yêu nước thương dân, có chí lớn, luôn mong đất nước phồn vinh, nhân dân ấm no, hạnh phúc. Chính vì thế, chỉ một thời gian ngắn sau khi khai sinh ra nhà Lý, ông đã có một quyết định táo bạo: ban “Chiếu dời đô”, dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La. Thăng Long. “Chiếu dời đô” có ý nghĩa đặc biệt, không chỉ bởi “nghĩa sâu, nghĩa rộng, logic rõ ràng, khí phách, lời văn phong phú”, mà còn bởi bản thảo này đã tạo ra một bước ngoặt quan trọng. điểm cho khán giả. với vận mệnh đất nước lúc bấy giờ, đồng thời cũng thể hiện tầm nhìn xa trông rộng, ý chí giữ vững nền độc lập và tấm lòng tân quốc của tân vương. Việc dời đô ra Thăng Long là một bước ngoặt lớn. Nó đánh dấu sự trưởng thành của quốc gia Đại Việt. Đó cũng là thời điểm bắt đầu sự nghiệp lẫy lừng của nhà Lý - triều đại có vai trò rất quan trọng trong việc đưa nền văn hóa nước nhà phát triển đến đỉnh cao.
Bằng trí thông minh và tầm nhìn xa trông rộng, Lý Công Uẩn đã nhận thấy vùng đất Hoa Lư hàng chục năm qua, với địa thế núi non hiểm trở, đã hoàn thành sứ mệnh giúp nhà Đinh, nhà Tiền Lê củng cố chính quyền, chống quân Tống xâm lược. Nhưng nay đất nước đã hòa bình, vùng đất này không còn phù hợp để phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước. Trước yêu cầu của thời đại mới, cần một nhà lãnh đạo tài ba để đưa ra những quyết sách lớn và quyết định của Lý Công Uẩn là dời đô về Đại La. rồng chầu hổ ngồi”, là hướng “chính Bắc, Đông, Tây”, là địa thế “rộng rãi, đất cao thoáng đãng”. là điều kiện để phát triển kinh tế “dân không lam lũ, vạn vật no ấm”. Có thể nói, với trí tuệ lỗi lạc và lòng nhân từ bao la, vua Lý Công Uẩn đã bày tỏ ý định dời đô với các quan trong triều một cách thuyết phục. “Chiếu dời đô” là một áng văn cổ đặc sắc và độc đáo, đích thực là tiếng nói của bậc đế vương. Đó là sự kết tinh vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ Việt Nam. Nó khơi dậy trong lòng nhân dân ta niềm tự hào và ý chí tự cường mạnh mẽ. Triều đại nhà Lý rất huy hoàng với sự khởi đầu là vị vua anh minh Lý Thái Tổ, nước Đại Việt viết tiếp trang sử vàng chói lọi.
Vai trò và công lao của Lý Công Uẩn đã được thực tế lịch sử chứng minh: cùng với kinh thành Thăng Long, quốc gia Đại Việt bước sang một giai đoạn phát triển mới, kinh tế ổn định, chính trị ổn định, văn hóa đặc sắc, mở ra thời kỳ thịnh trị nhất của lịch sử phong kiến Việt Nam . Nếu Lý Công Uẩn tuân theo quy củ của triều đại Đinh - Lê, giữ kinh kỳ ở vùng đất Hoa Lư hiểm trở, chắc chắn nhà nước Đại Việt đã không có những bước tiến dài như vậy.
“Dời đô” hay “Hịch tướng sĩ” đều đã là dĩ vãng, nhưng quá khứ ấy đã để lại nhiều suy ngẫm trong hiện tại. Cộng đồng nào cũng cần người lãnh đạo tài ba, đất nước nào cũng cần người lãnh đạo có tầm, có tài, có tâm với nước, với dân thì mới có thể bảo tồn và phát triển. Qua đó, chúng ta hiểu rõ vai trò của một nhà lãnh đạo anh minh có ý nghĩa vô cùng to lớn trong sự phát triển lâu dài của dân tộc và dân tộc Việt Nam bao giờ cũng vậy, dân tộc Việt Nam cần có những nhà lãnh đạo giàu bản sắc. Tấm lòng và tài năng như vậy.
Bài văn mẫu 4
Một vị tướng tài, ngoài lòng yêu nước và tài quân sự, họ còn phải biết yêu thương và dạy dỗ binh lính. Trần Quốc Tuấn đã hội tụ đủ những yếu tố đó. Anh luôn quan tâm, chia sẻ, xem những người lính như những người anh em khi chiến đấu trên chiến trường cũng như trong thời bình.
Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam luôn gắn liền với tên tuổi của những vị anh hùng dân tộc vĩ đại. Tài năng kiệt xuất và đức độ cao cả của họ đã có ảnh hưởng quyết định đến vận mệnh của đất nước. Đọc lại Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn và Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, ta thấy được nhân cách và hành động vì dân vì nước của họ. Qua đó, chúng ta hiểu rõ vai trò của người lãnh đạo anh minh có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát triển của quốc gia, dù đất nước lâm nguy hay thái bình thịnh trị.
Đất nước có giặc, giặc ngoại xâm đe dọa nền hòa bình của dân tộc, cũng là lúc cần những vị tướng tài. Trần Quốc Tuấn đã ghi dấu ấn trong lịch sử dân tộc và để lại ấn tượng sâu sắc về một võ tướng có một không hai trong lịch sử chống giặc ngoại xâm. Trần Quốc Tuấn gắn tên mình với Bạch Đằng, Chương Dương, Hàm Tử. Ông là người đã đập tan ý đồ xâm lược hung hãn của đế quốc Nguyên-Mông. Nhà quân sự kiệt xuất này đã có những chiến công hiển hách bởi ông quan tâm đến vận mệnh của đất nước với trái tim và ý chí của một vị anh hùng dân tộc. Cái tâm và cái tài của một vị tướng, một người con yêu nước, trung với vua được thể hiện rõ nét trong áng văn bất hủ “Hịch tướng sĩ”. Đọc “Hịch tướng sĩ” ta tưởng như mình đã nghe thấy tiếng nói của ông cha ta, của đất nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, thể hiện lòng căm thù giặc sâu sắc, ý chí quyết đánh thắng giặc không chỉ của riêng Trần Hưng Đạo mà nó là sự tổng hòa trong đó ý chí tình cảm của cả dân tộc yêu thiên nhiên. do và giàu lòng tự trọng.
Trước thảm họa đang đến gần: quân Mông – Nguyên xâm lược lần thứ hai với dã tâm không để một ngọn cỏ của Đại Việt mọc dưới vó ngựa của năm mươi vạn quân. Trần Quốc Tuấn viết "Hịch" kêu gọi tướng sĩ một lòng một dạ đối mặt với cuộc chiến sống còn. Lời lẽ chặt chẽ mà giàu cảm xúc, lập luận sắc bén đi vào lòng người đã chỉ rõ cho tướng sĩ tội ác của sứ giặc và những việc cần làm để đánh giặc. Trần Quốc Tuấn đau nỗi đau dân tộc, tủi nhục quốc thể. Tác giả ngứa mắt khi thấy “quân thù rình rập”, ngứa tai khi chúng “uốn lưỡi diều mắng triều đình”. Tác giả rất khinh bỉ, đã “vật hóa” chúng, gọi là “dê chó”, “hổ đói”. Ông mượn những tấm gương trung dũng hy sinh vì nước, vì dân để khích lệ tinh thần tự trọng của người lính. Ông cũng biết dùng tư tưởng và hành động của mình để khơi dậy lòng yêu nước của họ. Viết cho tướng sĩ, nhưng khi thấy ông phơi bày nỗi lòng, Trần Quốc Tuấn không khỏi lo lắng, đến độ quên ăn, Mất ngủ, đau như đứt từng khúc ruột. Nỗi lo ấy được ông bày tỏ với các chiến sĩ: “Bữa cơm ta hay quên ăn, nửa đêm vỗ gối; Ruột đau như cắt, nước mắt giàn giụa, chỉ hận mình chưa lột da, nuốt gan, uống máu quân thù.” Không chỉ căm thù giặc, Trần Quốc Tuấn còn nguyện hy sinh mình vì sự nghiệp đánh giặc ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc: “Thân này dù trâm cài ngoài cỏ, nghìn thân này bọc da ngựa, tôi cũng xin”. Trần Quốc Tuấn quả là một chí sĩ yêu nước thương dân, ông quả là tấm gương sáng cho quân sĩ noi theo, biết xả thân vì nước vì dân.
Một vị tướng tài, ngoài lòng yêu nước và tài quân sự, họ còn phải biết yêu thương và dạy dỗ binh lính. Trần Quốc Tuấn đã hội tụ đủ những yếu tố đó. Anh luôn quan tâm, chia sẻ, xem những người lính như những người anh em khi chiến đấu trên chiến trường cũng như trong thời bình. Nhờ tình cảm đó, Người đã thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước trong lòng họ. Nhưng thương yêu, lo lắng cho người lính không phải chỉ là những lời khuyên nhủ nhẹ nhàng, mà là sự phê phán nghiêm khắc, quyết liệt những việc làm, thái độ sai trái của họ: thờ ơ, vô cảm trước vận mệnh của Tổ quốc đang lâm nguy. , quên đi trách nhiệm của mình đối với vận mệnh nước nhà, tướng sĩ nếu không nghe theo thì hiểm họa trước mắt rất đau xót: “Bấy giờ ta và ngươi đều bị bắt, đau đớn biết bao. Lời dạy của Người đã đã thức tỉnh biết bao binh lính, khiến họ ý thức rõ hơn về quyền độc lập dân tộc, và hơn hết, chỉ ra những việc cần làm là phải cảnh giác, đoàn kết chống lại nguy cơ mất nước, Người thảo một cuốn binh thư vắn tắt để các tướng lĩnh và binh lính noi theo, bỏ một lối sống xa hoa, chú trọng luyện tập võ nghệ để ai cũng giỏi như Bàng Mông, con nhà Hậu Nghệ nên có công đánh tan quân thù. Hãnh diện nghĩ đến giây phút mình toàn thắng, chưa đánh giặc mà Trần Quốc Tuấn đã ca khúc khải hoàn “thân ta đời này vui chẳng những trăm năm sau còn vang tiếng vẫn còn lưu truyền những lời của trái tim tôi. Trần Quốc Tuấn và các tướng lĩnh đã làm cho các tướng lĩnh hết sức khâm phục vị tướng tài ba dám hy sinh, chiến đấu vì chủ nghĩa xã hội. Những con người kiệt xuất như Trần Quốc Tuấn thực sự là danh tướng có một không hai trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Lịch sử đã chứng minh lời Trần Quốc Tuấn nói. Với sự đồng lòng của toàn dân và toàn quân, Việt Nam đã giành thắng lợi trước kẻ thù mạnh nhất thời bấy giờ. Trong đó vai trò lãnh đạo của thủ lĩnh giữ vai trò quyết định, ông được người Việt suy tôn và gọi là Đức Thánh Trần. Chúng ta tìm lại bản lĩnh và tài năng của ông trong những nhà quân sự tài ba của thế kỷ 20, những người đã làm nên huyền thoại Điện Biên Phủ, làm nên đại thắng mùa Xuân 1975.
Đó là trong thời chiến, ngay cả khi đất nước thanh bình, chúng ta cũng không thể không cần đến một vị vua anh minh, tài giỏi, có thể lo cho trăm họ. Và một trong những vị vua anh minh, tài giỏi của đất nước là Lý Công Uẩn, ông là người đầu tiên lập nên triều đại nhà Lý ở nước ta. Ông là người thông minh, nhân ái, yêu nước thương dân, có chí lớn và lập nhiều công trạng. Lý Công khanh luôn mong muốn đất nước thịnh trị, nhân dân ấm no hạnh phúc. Vì vậy, ông nhận thấy Hoa Lư không còn phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Vì muốn định đô ở trung tâm, mưu tính nghiệp lớn, mưu muôn đời cho con cháu, nên năm 1010, ông đã ra chiếu dời đô để “tuân lệnh trời, thuận thiên hạ”. mọi người", bày tỏ ý định rời thủ đô. định đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) khi mới lên ngôi hoàng đế. Nơi ấy không phải là một Hoa Lư chật hẹp mà là một nơi rộng rãi, địa thế bằng phẳng, thế đất cao. Một nơi địa lợi về mọi mặt, nhân hòa ấm no, việc dời đô đã được thiên thời địa lợi nhân hòa. Nơi đó là thành Đại La (Hà Nội ngày nay). Sau đó, ông đổi tên kinh đô là Thăng Long. Việc dời đô ra Thăng Long là một bước ngoặt lớn. Nó đánh dấu sự trưởng thành của quốc gia Đại Việt. Đó cũng là thời điểm bắt đầu sự nghiệp lẫy lừng của nhà Lý - triều đại có vai trò rất quan trọng trong việc đưa nền văn hóa nước nhà phát triển đến đỉnh cao. Kinh đô Thăng Long đúng là nơi gắn kết lập nghiệp muôn đời, là nơi để sơn hà xã tắc bền vững muôn đời. Lịch sử các nước có nền văn minh lâu đời đều có những lần dời đô như vậy. Mỗi nước cờ là một thử thách của dân tộc. Đó hẳn là quyết định của những bộ óc thông minh nhất thời bấy giờ. Nói cách khác, không có chí lớn, không có quyết tâm, không có tầm nhìn xa trông rộng thì Lý Công khanh không thể nói đến chuyện dời đô.
Mở đầu slide, nhà vua giải thích lý do dời đô. Và bằng lập luận ngắn gọn nhưng sắc bén, cùng với dẫn chứng thực tế, nhà vua khẳng định: dời đô không phải là hành động, ý chí nhất thời của một người. Đó là biểu hiện của xu thế tất yếu của lịch sử. Lý Công uẩn vĩ đại là đã thấu hiểu nguyện vọng của nhân dân, nguyện vọng của lịch sử. Dân tộc Việt Nam không chỉ là một quốc gia độc lập. Để bảo vệ điều đó, sông núi lòng người phải được thu góp. Thần dân nào cũng phải có ý chí quyết tâm xây dựng Đại Việt thành một quốc gia hùng cường, thống nhất, ông hài lòng và sung sướng khi tìm được một nơi “trung tâm của trời đất”, nơi “rồng cuộn cuộn lại”, hào hứng nói về nơi mà “đúng chỗ là nam, bắc, đông, tây” và “tựa sông tựa núi”. Đây là vùng đất lý tưởng để con người tránh khỏi khổ đau và lũ lụt, và mọi thứ đều rất trù phú và tươi đẹp.” Cảm động trước tấm lòng của vị vua anh minh, quan tâm đến dân, tìm nơi đóng đô cho dân, mong cho dân được hạnh phúc. Việc dời đô ra Thăng Long là một bước ngoặt lớn. Nơi đây đánh dấu tòa thành của người Đại Việt. Chúng ta đã lớn mạnh đủ mạnh để đóng đô ở một nơi có thể đưa đất nước phát triển lên hàng đầu, đưa nước nhà trở thành một quốc gia độc lập sánh ngang với phương Bắc.
Có thể nói, với trí tuệ lỗi lạc và tấm lòng nhân hậu bao la, vua Lý Công Uẩn đã bày tỏ ý định dời đô với các quan trong triều một cách thuyết phục. Lời nhà vua nói ngàn năm trước, mà ngày nay nhìn lại, vẫn giữ nguyên ý nghĩa của nó. Trải qua bao thăng trầm, con rồng ấy vẫn bay lên trời cao như thách thức sự vô tận của thời gian. “Soi gương kinh đô” là áng văn xuôi cổ đặc sắc, độc đáo, đích thực là tiếng nói của bậc đế vương. Đó là sự kết tinh vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ Việt Nam. Nó khơi dậy trong lòng nhân dân ta niềm tự hào và ý chí tự cường mạnh mẽ. Triều đại nhà Lý rất huy hoàng với sự khởi đầu là vị vua anh minh Lý Thái Tổ, nước Đại Việt viết tiếp trang sử vàng chói lọi.
Đọc lại "Hiệu dời đô" của Lý Công Uẩn và bản hùng ca bất hủ "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn, chúng ta thấy một nhân cách sáng ngời và hành động vì dân vì nước. Qua đó, chúng ta hiểu rõ vai trò của một nhà lãnh đạo anh minh có ý nghĩa vô cùng to lớn trong sự phát triển lâu dài của dân tộc và dân tộc Việt Nam bao giờ cũng vậy, dân tộc Việt Nam cần có những nhà lãnh đạo giàu bản sắc. Tấm lòng và tài năng như vậy.
Thẩm quyền giải quyết : Phân tích Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn
Bài văn mẫu 5
Từ xa xưa, loài người luôn sống trong môi trường tập thể, nơi một cá nhân buộc phải dựa vào những cá nhân khác để tồn tại và chống lại các thế lực thù địch. Cũng từ khi biết cách sống trong đám đông, người ta bắt đầu coi trọng vai trò của người lãnh đạo. Trong các sử thi, truyền thuyết cổ xưa, nhân vật chính được miêu tả là thủ lĩnh của các bộ lạc, bộ tộc, là người mở đường dẫn dắt nhân dân đến cuộc sống ấm no, thịnh vượng.
Xã hội loài người càng phát triển thì “người dẫn đường” càng trở nên quan trọng và lịch sử Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Thực vậy, quá khứ của dân tộc để lại cho chúng ta sự khâm phục đối với nhiều vị lãnh tụ tài ba, như Lý Thái Tổ, Lý Công Uẩn, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Tài năng lãnh đạo của họ có thể được nhìn thấy từ nhiều góc độ, thậm chí từ các tác phẩm văn thơ của họ, chẳng hạn như “Tư trưởng” hay “Hịch tướng sĩ”. Tác phẩm ra đời đã lâu, tác giả cũng là người nước ngoài nhưng lời người xưa vẫn gợi cho ta nhiều suy nghĩ về con mắt, tấm lòng, trách nhiệm của người đứng đầu đối với vận mệnh đất nước, đôi khi với cả cuộc đời. của quôc gia.
Đối với một quốc gia, kinh đô là trung tâm quốc gia, nên việc dời đô chưa bao giờ là chuyện nhỏ, huống chi là trong thời kỳ “ phôi thai ” của một triều đại. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau khi khai sinh ra triều đại nhà Lý, Lý Công Uẩn đã có một quyết định táo bạo: cấm “Chiếu dời đô”, dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về thành Đại La, sau lấy tên là Thăng Long. . “Chiếu dời đô” có ý nghĩa đặc biệt, không chỉ bởi “nghĩa sâu, nghĩa rộng, logic rõ ràng, khí phách, lời văn phong phú”, mà còn bởi bản thảo này đã tạo ra một bước ngoặt quan trọng. điểm cho khán giả. với vận mệnh đất nước lúc bấy giờ, đồng thời cũng thể hiện tầm nhìn xa trông rộng, ý chí giữ vững nền độc lập và tấm lòng tân quốc của tân vương. Trải qua mấy chục năm, kinh đô Hoa Lư với địa thế núi non hiểm trở đã hoàn thành sứ mệnh giúp nhà Đinh, nhà Tiền Lê củng cố chính quyền, chống quân Tống xâm lược. Khi Lý Công Uẩn lên ngôi, vận nước đã thay đổi, việc cần làm lúc này là đẩy mạnh phát triển kinh tế, xây dựng cuộc sống ấm no, ấm no cho nhân dân, cũng là tạo cơ sở vững chắc để giữ vững nền móng. Sự độc lập. Đứng trước yêu cầu của thời đại mới, cần phải có một nhà lãnh đạo tài ba để đưa ra những quyết định lớn để dọn đường cho những kế hoạch nhỏ, và việc dời đô của Lý Công Uẩn là một quyết định như vậy.
Với “Chiếu dời đô”, Lý Công Uẩn đã hoàn thành trọn vẹn công việc của một “đại kiến trúc sư”, trí tuệ của ông hiểu được tầm quan trọng của một kinh đô, tầm nhìn xa trông rộng để thấy được lợi thế đặc biệt của thành Đại La chính là vị trí. “ở trung tâm trời đất, thế rồng cuộn hổ ngồi”, hướng “chính Nam, Bắc, Đông, Tây”, địa thế “rộng rãi”. Đất cao, thoáng”, là điều kiện để phát triển kinh tế “nhân dân không lam lũ, vạn vật phú quý”. người am hiểu phong thủy, lịch sử, địa lý, đồng thời cũng có tầm nhìn chính trị lâu dài, hơn nữa, trong bức thư dài hơn 200 chữ, vị lãnh đạo này đã 3 lần nhắc đến “dân” và “đại học” cho thấy quyết định dời vốn xuất phát từ quan điểm “lấy dân làm gốc”, lấy lợi ích trăm họ làm gốc.
Một nhà lãnh đạo nắm vận mệnh đất nước trong tay, điều cần nhất không phải là tấm lòng, tầm nhìn đó sao? Vai trò và công lao của Lý Công Uẩn đã được thực tế lịch sử chứng minh: cùng với kinh thành Thăng Long, quốc gia Đại Việt bước sang một giai đoạn phát triển mới, kinh tế ổn định, chính trị ổn định, văn hóa đặc sắc, mở ra thời kỳ thịnh trị nhất của lịch sử phong kiến Việt Nam . Nếu Lý Công Uẩn tuân theo quy củ của triều đại Đinh - Lê, giữ kinh kỳ ở vùng đất Hoa Lư hiểm trở, chắc chắn nhà nước Đại Việt đã không có những bước tiến dài như vậy. Công lao của Lý Công Uẩn đã khẳng định cho chúng ta thấy tài năng và tấm lòng của người lãnh đạo góp phần không nhỏ vào sự hưng suy của một triều đại, một quốc gia, một nhà lãnh đạo kiệt xuất. là ngọn đuốc soi đường cho quần chúng.
Với “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, vai trò to lớn của một vị lãnh tụ càng được khẳng định, nhưng trong một hoàn cảnh khác, khi đất nước đứng trước nguy cơ chiến tranh, vận mệnh của dân tộc. Nguy hiểm là không thể tránh khỏi. Tình thế ấy đòi hỏi danh tướng Trần Quốc Tuấn không chỉ thấy rõ “mưu” trận, một lòng lo vận nước mà còn phải có bản lĩnh để tập hợp lực lượng, điều binh, thu trăm quân về một chỗ. mối, đánh thức quân lính Đại Việt vốn đã vô tâm “nghe nhạc Thái Thượng đãi yến sứ ngụy mà không biết hận”. Lo lắng trước hiểm nguy đang đến gần và đau lòng trước sự thờ ơ của các tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn đã viết “Hịch tướng sĩ”. Hịch tướng sĩ vừa như một lời “khích tướng”, vừa như một lời tâm sự: “Ta thường ăn quên bữa, nửa đêm vỗ gối… Ta cũng vui lòng”.
Trong mọi cuộc chiến, yếu tố “nhân tâm” rất quan trọng, nhân tâm đôi khi quyết định tất cả. Hiểu được điều đó, vị tướng đã vạch ra trước mặt quân sĩ hai con đường, hoặc là nhà tan cửa nát, vận nước suy tàn, hoặc là vinh quang và chiến thắng muôn đời của dân tộc. Điều đặc biệt trong bài là Trần Quốc Tuấn không hề tỏ ra gượng ép, ông vạch ra rõ ràng hai con đường, và sự lựa chọn thuộc về kẻ sĩ. Như vậy, tài văn chương của Hưng Đạo Vương đã giúp ông thu phục lòng người, động lòng quân, làm được điều “quân tướng một lòng cai quản non sông uống rượu ngọt” (Bình Ngô Đại Cáo - Nguyễn Trãi). ). Trong thời chiến, một dân tộc không chỉ phải đối mặt với gươm giáo, súng ống mà còn phải đối mặt với những vũ khí giấu sau tấm lụa, đối mặt với hầm trú ẩn đầy cỏ non của quân thù. êm tai. Người lãnh đạo cầm quân trong tay, nếu không có một ý chí, một trái tim thép, sẽ là người đầu tiên rơi xuống hố sâu mà kẻ thù đã đào sẵn. Cũng như vậy, thời gian hòa hoãn kéo dài giữa hai cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông giống như liều thuốc độc làm hao mòn tinh thần chiến đấu, là cái bẫy vô hình làm thui chột nhuệ khí của quân sĩ, là màn sương mù che khuất ý chí đánh giặc. Là một nhà cầm quân, Trần Quốc Tuấn đã dùng cả tấm lòng của mình để xua tan màn sương tai ương, góp phần to lớn làm nên khí thế “Sát thất” vang danh sử sách.
Thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông có công lao không nhỏ của Hưng Đạo Vương, được tạo nên từ tài năng cả về văn lẫn quân sự. Danh tướng Trần Quốc Tuấn là hình ảnh tiêu biểu cho những phẩm chất của một người chính trực cần có trong thời chiến, đồng thời là minh chứng cho vai trò của người ngồi trên ngôi cao đối với toàn quân trước hiểm nguy. của quôc gia. Như vậy, qua Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ, có thể khẳng định rằng trong bất kỳ thời kỳ nào của đất nước, chiến tranh hay hòa bình, người lãnh đạo luôn có một tầm quan trọng đặc biệt, có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sự hưng thịnh của một đất nước. Một vị tướng bất tài không thể lập nên một đội quân tinh nhuệ, cũng như một quốc gia chỉ có thể trở nên hùng mạnh dưới sự lãnh đạo của một nhà lãnh đạo tài ba.
“Dời đô” hay “Hịch tướng sĩ” đều đã là dĩ vãng, nhưng quá khứ ấy đã để lại nhiều suy ngẫm trong hiện tại. Cộng đồng nào không cần một thủ lĩnh tài ba, không một đất nước nào không cần một thủ lĩnh có tầm, có tài và có tâm lay động trái tim người khác. Lịch sử Việt Nam tự hào về những vị lãnh tụ vĩ đại như Lý Công Uẩn, như Trần Quốc Tuấn, nhưng cũng không ít lần buồn vì nhiều bạo chúa hôn quân. Chỉ mong bước tiếp theo của dân tộc được chứng kiến tài năng kiệt xuất của những người nắm vận mệnh nước nhà trong tay để giấc mộng của Lý Thái Tổ thành hiện thực, thấy nước nhà hóa rồng bay giữa trời. thế kỷ này.
————————
Trên đây là một số tài liệu tham khảo nghị luận về vai trò của những người anh hùng thống lĩnh qua hai tác phẩm Chiếu dời đô và Hịch Chí hay nhất được trường THPT Ngô Thì Nhậm sưu tầm và tổng hợp làm tài liệu học tập cho các em học sinh. em. Ngoài ra, các em có thể tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu số 8 khác được cập nhật thường xuyên tại trường THPT Ngô Thì Nhậm. Chúc các bạn luôn học tốt và đạt kết quả cao!
Đăng bởi: Trường THPT Ngô Thì Nhậm
Xem thêm: hno2 đọc là gì
Thể loại: Giáo dục
Bình luận