phan tich nhan vat ba cu tu trong truyen vo nhat

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ Nhặt Bài viết dưới đây tuyển tập dàn ý phân tích nhân vật bà Tú cùng với các bài văn mẫu phân tích bà Tú, phân tích diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ, phân tích nhân vật cụ Tú trong tác phẩm Vợ Nhặt. sẽ là tài liệu tham khảo vô cùng hữu ích giúp các em nắm được cách phân tích đúng trọng tâm nhân vật bà Tú đồng thời nêu vai trò của nhân vật bà Tú trong tác phẩm.

Hình ảnh bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân tuy chỉ xuất hiện ở nửa sau của truyện nhưng đã để lại ấn tượng vô cùng sâu sắc trong lòng người đọc về hình ảnh người mẹ nghèo. , nhân từ và vô cùng yêu thương trẻ em. Tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ trong buổi sáng hôm sau cũng như trong bữa cơm ngày đói đã được tác giả khắc họa thành công giúp người đọc cảm nhận được về nhân vật bà cụ Tứ hiền lành, chất phác. , những đứa trẻ vị tha, tốt bụng và yêu thương. Dưới đây là những bài văn Phân tích nhân vật bà Tú hay và rất chi tiết sẽ giúp các em học sinh có thêm nhiều ý tưởng khi làm bài Phân tích nhân vật bà Tú sau khi học xong tác phẩm Vợ nhặt.

Bạn đang xem: phan tich nhan vat ba cu tu trong truyen vo nhat

Tìm hiểu thêm:

  • Phân tích nhân vật Thị trong Vợ Nhặt
  • Phân tích nhân vật Tràng trong Vợ nhặt
  • Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt
  • Phân tích bài Vợ nhặt
  • Mở bài hát Vợ nhặt hay nhất
  • Hết bài Vợ nhặt

1. Lập dàn ý phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ Nhặt

a) Mở bài Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ Nhặt

Vợ nhặt là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân . ẩn đằng sau vẻ ngoài đói khát của các nhân vật.

Trong ba nhân vật của truyện (bà cụ Tứ, Tràng, người đàn bà có vợ Tràng) thì bà cụ Tứ, mẹ của Tràng, là nhân vật có tâm trạng phức tạp nhưng lại vô cùng nhân hậu, thể hiện nổi bật nội dung nhân đạo. sâu sắc, xúc động trong tác phẩm. Ngòi bút tài hoa của Kim Lân cũng đã miêu tả thành công trạng thái tâm lí đó

b) Thân bài Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ nhặt

* Choáng váng bất ngờ

Một tình huống hết sức đặc biệt khiến bà cụ Tứ ngạc nhiên đó là việc con trai bà lấy vợ. Bà lão ngạc nhiên vì con mình vừa nghèo vừa xấu, còn người ở thì đói khát, không đủ ăn. Trang còn dám lấy vợ, lấy miệng ăn của người khác. Khi đi làm về muộn, bà lão ngạc nhiên khi thấy người đàn bà đang ngồi ở đầu giường con mình, và càng ngạc nhiên hơn khi bà cụ chào ông bằng tiếng u và cũng là do Tràng giới thiệu: “Kìa, nhà tôi nói chào cô"..." Nó mới về nhà làm bạn với tôi. Cô ngạc nhiên đến mức không tin vào tai mắt mình: "Bà già chớp mắt cho đỡ nhòe đi vì đột nhiên cái bà già thấy mà mắt mờ đi. Bà lão nhìn đi nhìn lại người đàn bà, vẫn không nhận ra ai. Bà lão quay sang nhìn con trai và nói rằng bà không hiểu.

* Vừa vui vừa buồn

– Khi đã rõ, cũng đã hiểu con trai “rước” vợ, bà “cúi đầu im lặng”. Bà nghĩ đến bao nhiêu “xót xa” “xót xa” cho số phận của chính đứa con mình. Nghĩ đến người chồng quá cố và đứa con gái đã khuất, lòng bà trĩu nặng nỗi xót xa.

- Bà cụ Từ mừng cho con trai mình từ đó có một gia đình yên ấm, tủi thân cho một người mẹ không thể chăm vợ thay con. Giờ giữa cảnh người chết đói “như ngả rạ” thì có người theo con về làm vợ. Nỗi tủi thân, tủi hờn của người mẹ cũng bị dồn vào cảnh nghèo. Biết cúng gì cho gia tiên, cố mà bày khi có vợ. Bà cụ Tứ khóc vì mừng cho con trai lấy được vợ, cũng vì thương đứa con dâu không biết làm sao để vượt qua cơn bĩ cực này.

“Hai giọt nước mắt rơi giữa đôi mắt bà lão.” "Bây giờ chúng ta kết hôn đi, thật xin lỗi!..." "Chà, hai người có duyên với nhau, trong lòng tôi cũng rất vui...". “Tôi ngồi xuống đây. Ngồi xuống cho đỡ mỏi chân.” Biết bao tình yêu thương chân thành, tha thiết của người mẹ được thể hiện qua những lời nói mộc mạc, giản dị ấy.

– Bà cụ thấy thương con dâu, thương con, tủi thân: “Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy dài trên mặt”. Bao nhiêu lo toan ngổn ngang trong lòng.

* Lo lắng

Bà Tư thực sự lo lắng cho con trai, con dâu, lo cho gia đình nghèo khó giữa nạn đói này liệu có đủ ăn cho nhau không? Điều gì sẽ tương lai sẽ như thế nào? Cô chấp nhận “hạnh phúc” gia đình và ngẫm nghĩ về sự nghèo khó của mình. Bà tự nhủ: "Gặp bước khó khăn, đói khổ thế này người ta sẽ nghĩ đến chuyện lấy con. Nhưng con trai mình chỉ có thể lấy vợ...". Bà cũng chỉ biết khuyên con, khuyên con dâu thương yêu nhau, sống hòa thuận với nhau để cùng nhau vượt qua gian khó. Đó là nỗi lo, đó là nỗi đau của một người mẹ từng trải, hiểu rằng cuộc đời có những tấm lòng sâu nặng dành cho mình. Trong nỗi buồn lo vẫn nhen nhóm một niềm tin.

* Sự tin tưởng

– Trong niềm vui, nỗi buồn, sự lo lắng, người đọc vẫn thấy được niềm vui, niềm hạnh phúc của ông lão. Một niềm vui tội nghiệp đã không kịp cất cánh mà cứ bị nỗi buồn, âu lo kéo xuống. Nhưng bà Từ vẫn cố gắng vui vẻ, cố gắng để con trai và con dâu hài lòng.

  • Hãy vui mừng với ý nghĩ tốt đẹp của cả tương lai: “Rồi may mắn thay, ông trời đã cho tôi rất nhiều tiền…” ai giàu, ai khó ba đời. Có như vậy thì con cháu sau này mới đến và bà lão sẽ “toàn nói về: những điều hạnh phúc, tất cả những điều hạnh phúc trong tương lai”.
  • Vui vẻ trong công việc tu sửa vườn tược, nhà cửa, bà lão đi cày cỏ dọn vườn. “Khuôn mặt ủ rũ của cô ấy cũng tươi tỉnh hẳn lên. Bà già xăm trổ dọn dẹp, quét nhà”.
  • Vui vẻ trong bữa điểm tâm, bữa ăn đầu tiên với con dâu chính là “bữa tiệc cháo loãng và pho mát” đắng - một bữa đói rất nghèo nàn, nhưng bà cụ vẫn cố gắng tạo ra niềm vui, niềm vui để động viên, an ủi. con trai và con dâu của ông.

– Dù cuộc sống có khắc nghiệt đến tàn bạo và cũng đã ập đến với mẹ con chị nhiều cơ cực. Bà vẫn cố gắng tạo không khí ấm cúng trong gia đình, kể chuyện làm ăn, chuyện nuôi gà tươi cười, xúc cho con dâu bát cháo cám.

Tuy nhiên, niềm vui ấy dù rất nhỏ nhoi mong manh vẫn chìm trong bóng tối hiện tại: Tiếng khóc than, mùi khét của những đống củi cháy trong những ngôi nhà dân chết đói, nơi bà cụ nghĩ đến. ông lão, và đứa con út, cuộc đời dài khổ cực, và “cơn đói lớn” trước mặt. Bà lão nghĩ về con trai và về cô con dâu của mình.

Nhân vật bà cụ Tứ mang tư cách đạo đức của truyền thống:

Trong thân hình gầy gò, tiều tụy, với khuôn mặt ''sưng húp, sạm đen'', bà vẫn nuôi một nghị lực sống mãnh liệt. Bà là hiện thân của những người mẹ nghèo từng trải, và hiểu rằng: hết lòng thương con, thương những kẻ đáng thương. , những cảnh đời lập dị nơi cô nuôi dưỡng viễn cảnh về một cuộc sống gia đình hạnh phúc.

c) Kết bài Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ Nhặt

Qua nhân vật bà cụ Tứ cùng với diễn biến tâm trạng phức tạp - dưới ngòi bút nhân đạo của Kim Lân - với nội dung cảm động, nhân văn sâu sắc tác phẩm "Vợ Nhặt" đã chạm đến nơi sâu sắc nhất. của lòng người, buộc người đọc phải khóc, cùng cười, cùng sống với nhân vật của mình.

2. Văn mẫu phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ nhặt

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ Nhặt (văn mẫu 1)

Bưu kiện phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ Nhặt Tốt nhất để bạn tham khảo:

Người mẹ Việt Nam luôn là nguồn cảm hứng sáng tạo của văn học. Không có thể loại nào không có tác phẩm về mẹ. Trong các tác phẩm của tác giả Kim Lân, chắc hẳn người đọc không thể không ấn tượng với nhân vật bà cụ Tứ. Bà là một người mẹ nghèo có trái tim nhân hậu, giàu lòng yêu thương con người và luôn có niềm tin vào tương lai.

Bà cụ Tứ là mẹ của anh Trang. Trong tác phẩm, bà lão hiện ra trước mắt người đọc trong ánh chiều tà tê tái, như một người mẹ nghèo “ho khan” như chiếc bóng lững thững đi vào ngõ. Trước mái nhà tranh nằm cheo leo trên một mảnh vườn cỏ dại mọc um tùm. Nhà văn đặt nhân vật vào một tình huống bất ngờ đó là người con trai lấy một người phụ nữ về làm vợ giữa một ngày đói kém khủng khiếp và cái chết đang rình rập từng nhà. Viết về bà cụ Tứ, nhà văn đã đi sâu phân tích tâm lý và tấm lòng nhân ái đáng quý của bà đối với con cháu.

Như mọi người khác trong ngôi làng nhỏ, ban đầu cô rất ngạc nhiên và không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Thấy Trang từ trong ngõ bước ra chào, anh reo lên như một đứa trẻ bồn chồn khác thường. Tâm trạng bà Từ trở nên bất ổn, có điều gì đó bất thường đang chờ đợi bà. Giữa sân và bà lão đứng sững lại, càng ngạc nhiên hơn. Kim Lân đã chọn ngôn ngữ độc thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng của bà cụ: “Sao lại có người đàn bà trong đó? Đàn bà gì mà đứng đầu giường như con bà? Sao lại chào bằng u? Không phải con của Đức. Ai đó?" Mãi đến khi nghe Tràng giảng giải, bà lão mới hiểu ra chỗ nào. Lòng cô tràn ngập những lo lắng, buồn phiền, vừa thương hại vừa vui sướng. “Bà cụ cúi đầu im lặng” trong lòng bà đầy ám ảnh về một quá khứ nặng trĩu cay đắng. Cô nghĩ đến ông già, đến đứa con út, đến cuộc đời dài dằng dặc mà cô yêu quý. . Còn tôi…” Trong đôi mắt bà rưng rưng hai dòng lệ, cái đói đe dọa, vợ con lo lắng.

Từ đau buồn, mặc cảm và lo lắng, cô nghĩ đến vận may của gia đình mình. Cô cũng cảm thấy tội nghiệp cho người phụ nữ xa lạ. Người mẹ nghèo và tốt bụng thấu hiểu hoàn cảnh của cô con gái xa lạ bỗng trở thành con dâu của chính mình. “Một bước gian khổ, đói khổ, một mình đã dắt con đi. Chỉ con mình mới có vợ mà thôi..” Nghĩ vậy, bà vui trong lòng, trong những cử chỉ dịu dàng, yêu thương. Bà gọi người đàn bà xa lạ là “con” và gọi “ư” một cách chân thành: “Thôi, các con phải sống Ở bên nhau sẽ hạnh phúc". Là một người mẹ, mẹ cũng mong có "vài mâm cỗ" trước để cúng ông bà tổ tiên, sau đó để mời làng xóm. Có thể nói mẹ là người có tư duy cầu tiến, nhưng đó là cái khó ló cái khôn, và ước nguyện giản đơn ấy không thể thực hiện được vì bà quá nghèo.

Thương con, thương dâu ở đâu bà cũng dặn dò con dâu bằng những lời động viên, an ủi: “Nhà mình nghèo. Vợ chồng bảo nhau làm ăn cẩn thận được không? Rồi may mắn, ông trời sẽ cho bạn may mắn. Con biết không con, ba đời ai giàu, ai khó? Ừ, sau này con cái của chị sẽ đến.” Cô lại động viên, an ủi: “Hai đứa hòa thuận với nhau là mừng rồi. Chúng ta sẽ kết hôn, nhưng cho đến bây giờ, tôi rất xin lỗi."

Sáng hôm sau, con trai cô đã kết hôn và cả gia đình cô dường như đã thay đổi. Sáng hôm sau, bà cùng con dâu dậy sớm thu dọn, quét tước nhà cửa. Mẹ Trang cũng nhẹ nhõm, tươi tắn khác hẳn ngày thường, khuôn mặt ủ rũ, ủ rũ của bà bừng sáng lên”. Bữa cơm nàng dâu thật thê thảm với “Giữa mẹ chồng rách có mớ rau chuối rối, đĩa muối ăn với cháo”. Bà chiêu đãi con dâu món cháo cám “chè phô mai”. Các bà ai cũng nói chuyện vui vẻ, chuyện vui sau này bà kể với con trai rồi mấy ngày sau mua mấy cái nứa về chống trống, có tiền nuôi vài con gà nhưng chẳng mấy chốc đã có cả đàn gà. Mẹ cho đàn con niềm tin sống dù tiếng trống thuế vẫn còn vang, tiếng quạ kêu từng hồi. Không khí ảm đạm vẫn bao trùm cuộc sống. Có thể nói trong bức tranh xã hội buổi sáng ấy, bà cụ Tứ là một điểm sáng về đạo đức con người. Người mẹ không ước gì cho riêng mình mà luôn sống vì con, vì con, vì thế hệ con cháu mai sau.

Xem thêm: khso4 + khco3

Nhân vật bà Tú dường như cũng không thể vượt qua được, nhất là trong hoàn cảnh gia đình, bóng tối của xã hội và ngọn lửa tình mẫu tử đủ để bà giữ vững niềm tin, hy vọng vào một tương lai tươi sáng. . Vẻ đẹp nhân hậu vốn có ở bà còn được tác giả miêu tả một cách tinh tế qua việc sử dụng ngôn ngữ chọn lọc trong việc miêu tả tâm lí nhân vật đã góp phần khắc họa vẻ đẹp tâm hồn của người mẹ Việt Nam nghèo khó.

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ nhặt (văn mẫu 2)

Bưu kiện phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ Nhặt điểm 9+ Cho bạn tham khảo:

Vợ nhặt là một trong những tác phẩm hay nhất của nền văn học Việt Nam với chủ đề về cuộc sống của người công nhân trước Cách mạng. Xuất hiện trong truyện là ba nhân vật với những nỗi khổ và đáng tiếc khác nhau nhưng có lẽ đáng thương nhất vẫn là bà cụ Từ. Trong truyện, nhà văn Kim Lân đã dừng lại miêu tả khá sâu tâm trạng của nhân vật khi bất ngờ nhận được tin vui từ người con trai: Trông thấy mẹ, Tràng reo lên như đứa trẻ vượt cạn. Cái đói này không!

Nếu đọc Ngô Tất Tố, Nam Cao, chúng ta ít nhiều sẽ hiểu được cuộc sống khổ cực của nhân dân lao động. Nghèo đói và còn bị chèn ép đến mức tha hóa về nhân phẩm cũng là bi kịch lớn nhất mà chính họ phải chịu đựng. Nhưng cũng có những con người bằng xương bằng thịt vẫn can đảm hay nói chính xác hơn là liều lĩnh chấp nhận nhiều khổ hơn, và vì một lý do rất đơn giản: tình yêu, tình người. Đó là ai? Bà là chị của Dậu, là mẹ và là em của Tràng.

Nếu người dân Nhật Bản không bao giờ cho phép mình quên đi thảm họa Mỹ ném hai quả bom nguyên tử và Nagasaki thì người dân Việt Nam không thể quên năm 1945 bởi nạn đói chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Cho đến ngày nay, người ta vẫn gọi nạn đói năm đó là kinh hoàng nhất. Trong The Pick Up Wife, cái đói và cái chết xuất hiện như những nhân vật có mặt khắp nơi. Người sống bạc như ma, người chết như rơm rạ. Thế giới sống lại cũng giống như cõi chết, luôn nồng nặc mùi rác rưởi và mùi của chính những con người đó. Thử âm thanh ấy, nhưng không còn là tiếng cười ríu rít của lũ trẻ mà là tiếng quạ kêu từng hồi, nghe đến đau lòng. Thế nhưng, trong lúc mọi người đang đói khát, đang từng giờ từng phút chống chọi với Thần chết, thì ông Tràng đã làm được một điều kỳ diệu, đó là lập gia đình. Nhưng cái gì cũng có nguồn của nó. Hàng xóm không hiểu sao có thể để lão Tràng phát điên, chỉ có bà cụ Tứ - người đã sinh thành ra lão, cũng là người mà cuộc đời đã trải qua bao nhiêu cay đắng.

Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà là những việc trọng đại của mỗi con người, cần phải được ý kiến ​​của cha mẹ và các bậc bề trên. Nhưng việc Tràng lấy chồng đột ngột được thông báo khiến bà Tú ngạc nhiên khôn tả. Mới đầu cũng chỉ là tính hỏi vì thấy sự háo hức chào đón của cậu bé khác hẳn ngày thường: bà Tư chớp mắt nhìn Trang, rồi chậm rãi hỏi: Có chuyện gì vậy? Thấy Tràng còn ung dung chưa trình bày câu chuyện, bà lão ngập ngừng theo con vào nhà. Kim Lân cũng đã rất tinh tế khi dùng hai từ để nói lên sự lo lắng, nhẫn nhịn chờ đợi của bà cụ. Hành động đứng yên đưa nhân vật đến tột đỉnh bất ngờ. Ngòi bút của nhà văn vẫn không đứng ngoài quan sát mà đã hoàn toàn nhập tâm vào tâm trạng nhân vật, hiểu được nỗi băn khoăn đang hiện lên cùng với những câu hỏi trong đầu bà lão: Mẹ kiếp, sao lại có một người đàn bà trong đó? Huh? Người phụ nữ nào lại đứng ở đầu giường của con trai mình như vậy? Tại sao lại chào với u? Không phải con Đức mà là Ai vậy? Bốn câu hỏi âm thầm nảy ra trong suy nghĩ của bà Từ. Bản thân bà lão không thể trả lời, nhưng không ai khác trả lời cho bà. Mọi câu hỏi cũng chỉ xoay quanh sự xuất hiện của người phụ nữ trong nhà và không có gì ngạc nhiên khi ngôi nhà vốn dĩ chỉ có hai mẹ con giờ đã có thêm người thứ ba. Không ngạc nhiên khi có giả thuyết cho rằng các con của ông Đức - đứa con gái duy nhất đã không còn? Tuy nhiên, vẫn có người có thể gọi bà cụ bằng u. Sự điềm tĩnh vốn có của người già cũng giúp bà Tú không hoảng sợ. Nhưng đáng thương hơn là bà cụ tưởng mình nhìn nhầm: Bà lão chớp mắt cho bớt cay và Cuối cùng, nỗi trăn trở của bà cụ Tứ vẫn không thể lý giải được: Bà lão quay lại nhìn đứa con và bày tỏ rằng cô không hiểu. Và điều này lý giải bởi trước sự việc của Tràng, bà Tú hoàn toàn ở thế bị động, mọi chuyện đến với bà là chuyện đã rồi và bà là người không biết gì cả.

Khi Tràng còn đang cố tình trì hoãn chốn thâm cung, mời mẹ vào nhà ngồi chật thì bà lão hớt hải chạy vào nhà, đó là sự run rẩy của tuổi già hay sự lo lắng, sợ đoán điều bất ngờ. thảm họa có thể đã xảy ra? Đối với người mẹ tội nghiệp này, còn gì khủng khiếp hơn thế này? Hai chữ lan man của Kim Lân đã khơi dậy trong lòng người đọc sự đồng cảm sâu sắc. Biết trước những sự việc nhưng người đọc vẫn hồi hộp chờ đợi phản ứng của bà lão, vẫn nín thở xem bà lão sẽ nói gì và làm gì?

Nhân vật của chúng ta vẫn chưa hình dung ra mọi chuyện khi cô dâu mới chào lần thứ hai. Và có vẻ sốt ruột trước sự chậm phát triển của bà lão, người viết còn để Trang chú thích: Kìa nhà mình, nó chào u. Tuy nhiên, bà Từ vẫn không thể hiểu được sự thật của câu chuyện. Làm sao bà cụ hiểu được khi trong thâm tâm bà không tin con trai mình lấy được vợ. Chú Trang vừa nghèo, vừa xấu, vừa vụng, làm sao lấy được vợ? Vả lại, thời buổi này, ai còn nghĩ đến chuyện lập gia đình? Nỗi băn khoăn của bà cụ chỉ qua đi khi Trang mạnh dạn trình bày về công việc kinh doanh của mình và gia đình tôi, cô ấy mới quay lại làm bạn với tôi! Chúng ta được định sẵn để sống cùng nhau. Nó chỉ là một con số. Và thế là bà cụ cúi đầu im lặng, đó không phải là im lặng, mà là im lặng - tức là im lặng, nín nhịn vì không nói được gì. Bà Tư đã hiểu ra mọi chuyện. Kim Lân còn tiếp tục đồng cảm với những suy nghĩ của bà để hiểu hơn bao giờ hết những ân hận, xót xa trong lòng bà cụ: Lòng người mẹ nghèo ấy còn hiểu bao nỗi vấn vương, bất bình. chỉ thấy thương cho số phận con mình. Ai ghét vì sao? Tiếc vì sao? cơ sở của điều đó là gì? Cô ấy cũng rất hiểu chuyện. Những thổn thức trong lòng bà cụ chỉ có Kim Lân mới thấu hiểu, đồng cảm và giải tỏa cho người đọc hiểu. Hóa ra suy nghĩ của bà lão không đơn giản như chúng ta tưởng. Nghèo đói không khiến bà lão chảy dãi chấp nhận cuộc sống vô ưu. Bà cụ đau đáu nỗi đau của một người mẹ không lo được hạnh phúc cho con mình. Với đề văn: Chao ôi, người ta lấy vợ cho con khi được ăn no mặc ấm, như mong có con mà mở rộng tầm mắt trong tương lai. Còn tôi, tôi là sự tự trách, là tiếng thổn thức, nghẹn ngào của người mẹ nghèo. Tuổi già nước mắt như sương, nhưng trong mắt bà cụ Tứ vẫn thấy hai dòng nước mắt. Đó là những giọt nước mắt của sự ân hận tột cùng. Đó là những giọt nước mắt khóc cho nỗi khổ của chính mình. Nhưng đó cũng chính là những giọt nước mắt kiêu hãnh, cũng chính những giọt nước mắt ấy giữ cho nhân cách con người không rơi vào bờ vực của sự tha hóa. Người mẹ nghèo cũng chỉ có những giọt nước mắt ấy để minh chứng cho tình yêu tha thiết của mình dành cho con.

Đau lòng và đau khổ đến tột cùng, bà cụ Tứ rất lo lắng cho tính mạng của các con. Chỉ có một câu trả lời là: Biết nuôi nhau qua cơn đói khát này không? Mối lo ngại đó không phải không có cơ sở. Cả khu phố, rộng hơn cả nước đang điên đảo trong nạn đói, khó giữ nổi mạng sống cho mình, đằng này, nỗi lo của ông bà Tư cũng là nỗi lo của một người mẹ có trách nhiệm với con cái. Ở cái tuổi gần đất xa trời, cô cũng có quyền vô tư với những chuyện đó. Nếu không thương con, không có trách nhiệm với cuộc đời của các con thì bà cụ đã không mệt mỏi, khổ sở như vậy.

Trong Nhặt Vợ, bà cụ Tứ cũng chỉ xuất hiện ở nửa sau của truyện. Với những tình tiết đã xảy ra từ trước, người đọc phỏng đoán rằng bà cụ Tứ sẽ xuất hiện với vẻ ngoài khắc nghiệt thường thấy ở những bà mẹ chồng nông thôn. Nhưng ngay cả Tràng cũng bất ngờ trước thái độ của mẹ. Sự lễ phép trong cách cư xử, và đặc biệt là tâm trạng thay đổi thất thường của nhân vật càng khẳng định nhân cách cao đẹp của nhân vật ở bà Tú. Trước mắt chúng tôi là một trong những người mẹ hết lòng yêu thương con cái, một bà lão nghèo khó nhưng cũng rất nhân hậu. Tất cả những điều đã trải qua trong lòng bà lão đều được Kim Lân ghi lại một cách chân thực và sâu sắc.

Kim Lân là một trong những nhà văn có sự hiểu biết sâu sắc về tâm lí nhân vật. Dưới ngòi bút của ông, những tình cảm sâu kín trong lòng người mẹ già được thể hiện một cách chân thực, ý nhị, vừa cảm động vừa ám ảnh. Nếu không có tình yêu thương, sự cảm thông, chia sẻ thì nhà văn không thể diễn tả thành công diễn biến tâm trạng của bà Tú trong một đoạn văn ngắn như vậy. Ủng hộ tấm lòng nhân đạo chắc chắn cũng là bản lĩnh nghệ thuật của nhà văn. Hình ảnh bà cụ Tứ và hình ảnh chị Dậu vốn là hình ảnh người vợ cam chịu, tần tảo trong sáng tác của Nam Cao đã làm nên hình ảnh người phụ nữ Việt Nam bất tử.

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ Nhặt (văn mẫu 3)

Bưu kiện phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ Nhặt Bài viết của học sinh chuyên văn mời các bạn tham khảo:

Không phải là nhân vật chính, xuất hiện lại ở cuối bài, nhưng cụ Tứ - mẹ của anh Tràng trong Vợ Nhặt của Kim Lân cũng góp phần làm cho tác phẩm thêm sâu sắc. Với tình cảnh anh Tràng “nhặt” được vợ trong những ngày đói kém, Kim Lân muốn khắc họa số phận bi thảm của người nông dân trước cách mạng tháng Tám, thể hiện sự cảm thông, chia sẻ trước những khát khao. hạnh phúc của bao số phận bất hạnh ấy.

Sau tình huống tìm được vợ, anh Tràng, chị dâu và mẹ ở đâu dường như đã trở thành những con người khác hẳn. Và bà lão của Bốn Người Mẹ Nghèo cũng đã bộc lộ tấm lòng sâu thẳm của một người mẹ mà cuộc đời đầy những muộn phiền, lo toan đè nặng lên cuộc đời. Vì vậy, nhân vật phụ này đã tạo nên một phần không nhỏ giá trị nhân văn của tác phẩm.

Chân thực trong tranh và chân thực đến từng chi tiết, cùng với Kim Lân dường như không kể mà dẫn chúng tôi đến với bà cụ Tứ. Bắt đầu với tư thế: "Chiếc ô không đi vào ngõ khi miệng lầm bầm điều gì đó". Có biết bao thân thương, trìu mến. Ta gặp lại bóng dáng gầy guộc, còng vì sương gió mà đời người đàn bà đã quen. Từ láy “không ô” cũng đầy sáng tạo và giàu sức tạo hình. Lẩn thẩn, rồi từ từ đi theo sự “bất ngờ” trước sự đón tiếp khác thường của “cậu con trai”, bà bước vào nhà. Khi cô nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở đầu giường của con mình, cô đã rất ngạc nhiên.

Một loạt câu hỏi đã nảy sinh trong tâm trí già nua của cô. “Người phụ nữ nào lại đứng ở đầu giường của con trai mình như vậy? Không phải cái đục. Đó là ai? Sao phải chào bằng u?". Phải, bà không ngờ giữa năm đói nghèo, con cháu không đem được vợ về! Thắc mắc mãi bà mới hiểu ra, "bà lão cúi đầu im lặng", vừa "oán và thương cho số phận con bà", thương con rồi lại tủi thân "Ôi người ta cưới cho con, ăn thì làm mà mình thì không được...". những câu ở dòng này, ta như thấy lòng mẹ trong tấm thân gầy đang rung động trong đau đớn, xót xa.Việc trọng đại của đời con, lẽ ra phải “đôi mâm cơm”, nhưng “nhà ta quá tội nghiệp” thì cũng chỉ là trong suy nghĩ của mình thôi, không làm được đâu.

Bà cụ thương con nhưng lại ân hận, rồi lại thương con dâu. “Người ta phải trải qua bước đói nghèo khó khăn này, mới đến được với đứa con của mình. Chỉ con mình mới có vợ…” Vừa mừng vừa lo, bà trăn trở trước nỗi lo rất chính đáng của những con người cũng từng trải qua cuộc đời vất vả, đau thương: “Biết mà nuôi nhau mà sống. Con có qua được cơn đói này không?” Cố nén lo lắng trong lòng, bà lão động viên người con tin vào tương lai: “Vợ chồng con bảo nhau làm ăn, biết đâu ông trời cho… thì sao con biết đấy, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?…”. Bà nói với con dâu bằng giọng của một người từng trải – vừa lo vừa thương: “…Năm nay, con đói lắm. Hai đứa sắp lấy chồng rồi, buồn quá..." "Bà không nói được nữa..." và tôi hiểu, con dâu bà bây giờ rất hiểu bà, gần gũi với bà, và thực sự coi cô ấy như mẹ của mình. Mẹ. Và điều đó có nghĩa là "đám cưới" đã xong.

Không lễ lạt, không xe đưa đón, bằng tấm lòng chân chất, nhân hậu của người mẹ nghèo đã thay thế tất cả. Đến đây, ta cứ liên tưởng đến mẹ chồng Đan trong “đám cưới” (Nam Cao). Người mẹ ấy “mở miệng là nói”, và nói rất nhiều, rất “ngọt ngào” để lấp đầy cái “không nhiều” làm “mát lòng” bố Đan. Chao ôi, trước cách mạng những bà mẹ nông dân nghèo khổ là thế sao? Tình thương con, tinh thần trách nhiệm của một người mẹ đã khiến họ cưới cho con bằng tất cả khả năng của mình, và dù chỉ là lời nói... Nhưng nếu mẹ chồng Đan nói nhiều thì bà D. Tu Hiện tại, tôi chỉ nói rất ít. Cô khóc “Nước mắt cứ chảy dài”. Những giọt nước mắt ấy cũng đã nói lên tất cả tấm lòng chân thành của cô. Bà dành những lời có cánh trong bữa cơm mừng con dâu ngày hôm sau - “chuyện vui tính sau, chuyện vui tính sau”, bà cũng say sưa kể về những dự định tương lai của con cái…

Từ ngạc nhiên đến giây phút lặng đi rồi “nghĩ ra nhiều điều”, từ những giọt nước mắt tội nghiệp, thương con dâu đến nỗi lo “không biết có nuôi được nhau không, chúng nó đói” đến vui sướng. niềm vui, niềm tin vào tương lai..., với tất cả đan xen, hiển hiện dưới ngòi bút của Kim Lân. Tác giả đã đi sâu phân tích diễn biến tâm lí tinh tế của bà cụ Tứ, thể hiện một cách khéo léo trong từng suy nghĩ, hành động, lời nói. Sai lầm khi lo lắng cho tương lai, cùng cách nhìn người nghĩ về mình, sự tủi thân hay lý tưởng của người xưa: “…Tiếc chết nó cũng phải chết, làm sao mà lo cho hết được. ? “Có đọc thì không khỏi đinh ninh đó là lời của bà cụ Tứ, không lẫn vào đâu được lối nói và suy nghĩ vừa lang thang vừa kiểu một bà mẹ già nhà quê.

Tác giả vừa hóa thân vào nhân vật vừa để phân tích diễn biến tâm lý và ghi lại một cách khách quan. Đặt nhân vật vào một hoàn cảnh không gian và thời gian nhất định, Kim Lân đã thể hiện sâu sắc tâm trạng của nhân vật. Bà cụ Tứ ngửi thấy “mùi củi cháy của những ngôi nhà thoang thoảng mùi xác chết cháy” mà “nghĩ đến ông già, nghĩ đến đứa con gái út”, đến “đời khổ của chính mình”. rồi lại lo lắng cho tương lai của con cái: “bố mẹ ngày trước có hơn gì nhau không?”.

Nghệ thuật “biện chứng của tâm hồn” đã thể hiện tài tình trong từng biến thái tinh tế, phong phú trong tâm hồn con người của người mẹ nghèo. Tác giả phải có một sự thấu hiểu, trân trọng đặc biệt và vốn sống phong phú mới có thể diễn đạt chân thực và tài tình đến thế. Vợ nhặt không còn là những trang văn, mà là những trang đời - mà là những trang đời đẫm nước mắt của nỗi đau xót xa, xót xa, lo sợ cho tương lai và rạng ngời trong trái tim người mẹ nghèo. Hiện thực nhưng cũng rất cảm động, ở đó hình ảnh bà cụ Tứ không chỉ giúp ta chứng kiến ​​diễn biến tinh tế của tâm thức mà người con vô cùng xúc động, trước tấm lòng chân thành, tha thiết của người mẹ.

Đọc câu chuyện, có lẽ không ai quên được cái cách giấu nước mắt thương con vụng về, vụng về của bà cụ: “Có đèn không? Ừ, thắp tí cho sáng lên… Dầu giờ đắt lắm… Cô cố kìm nén cảm xúc, cố nuốt những giọt nước mắt đắng cay vào trong trái tim vốn đã đắng cay, cay đắng trong trái tim vốn đã cay đắng như một kiếp người khốn khổ. Và rồi, trước đôi mắt ngấn lệ của người đọc, đoạn " nước mắt cứ tuôn” dòng sau lời tâm sự của bà cụ với các cô con dâu hiện lên rõ hơn bao giờ hết. Nhưng vẫn có những giọt nước mắt trong suốt từ đôi mắt mờ đục. Những giọt nước mắt long lanh trong tấm lòng vị tha cao cả của người mẹ. Nước mắt mặn là muối của đất, cũng là muối của một trái tim yêu thương dạt dào như biển cả...

Những giọt nước mắt lặn vào đó cũng hóa thành niềm vui chân thành trong cảm xúc “xăm mình, dọn nhà, quét nhà”, còn những tít tít về kế hoạch ngăn phòng đôi vợ chồng trẻ, mua một cặp gà... Chúng ta sẽ xem rằng bà già “gần đất xa trời” này mới là người nói về tương lai hơn cả. Đó không chỉ là niềm lạc quan lành mạnh của người lao động, mà tất cả là ước vọng tha thiết của người mẹ nghèo về một ngày mai tươi sáng hơn. Có lẽ cô ấy không còn nhiều thứ để sống. Phụ nữ sống vì con tìm thấy ý nghĩa nhân sinh trong việc chăm sóc cho chúng ta. Và cứ thế, những mong ước, hi vọng không chỉ của những người trẻ - nó còn trở nên sâu đậm, nồng nàn hơn trong trái tim của những người mẹ nghèo như bà cụ Tứ. Ai dám nói mẹ láu cá và ngu xuẩn? Ai dám cười vào những mong muốn và kế hoạch của cô ấy? Gốc lạc quan yêu đời không những không héo úa mà còn xanh tươi hơn trước mưa nắng của cuộc đời. Tâm lý đó khiến chúng ta xúc động, nhận thức rất rõ về nhiều thứ...

Tâm lý ấy làm nên bữa tiệc cháo, khiến nồi cháo “chát chát, nghẹn ở miệng nhưng ngon ở trong lòng”. Người đọc cười ra nước mắt vì thích thú, thật là vui khi bà lão “mỉm cười” bưng nồi cháo cám “bốc khói” vào nhà, tươi cười xúc cho con cháu và nói: “Cám ơn anh, Này. Ngon lắm, cứ ăn thử xem.” Vâng, nồi cháo cám là hèn, tấm lòng của người mẹ quê nghĩ đến có đáng thương và đáng quý không? Cô ấy dường như đang cố gắng xua tan bầu không khí ảm đạm hết mức có thể, cố gắng vượt qua hoàn cảnh bằng sự vui vẻ và động viên. Bên trong vẻ ngoài tươi tắn ấy, tôi biết trái tim người mẹ đang thổn thức.

Lòng người đọc cũng trào lên một nỗi xót xa... xót xa cho niềm vui của bà cụ - niềm vui không thể cất cánh. Bởi lẽ, như thể còn bát cháo cám, còn tiếng trống thuế đinh giãy giụa khiến niềm vui không thể nào… “Bà không dám để con dâu thấy mình khóc” người đọc có thể thấy rõ điều đó. tự đánh rơi mình. nước mắt trong tim, thấy rõ những giọt nước mắt của tác giả Kim Lân khi viết những dòng này. Bằng tất cả sự nâng niu, trân trọng, nơi  Kim Lân đã để trái tim mình đập cùng nhịp với trái tim của người mẹ nông dân nghèo khó…

Qua “Vợ nhặt”, Kim Lân đã xây dựng thành công hình ảnh người mẹ nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Một người mẹ nghèo về tiền bạc nhưng giàu tình yêu thương, hết lòng vì con - một người mẹ Việt Nam truyền thống. . Đằng sau bà Tú, ta thấp thoáng thấy Lão Hạc, chị Dậu, mẹ Dần... những con người sống hết lòng vì người thân của mình.

Tìm hiểu thêm:

Xem thêm: hcl k2cr2o7

  • Tóm tắt truyện Nhặt Vợ
  • Soạn bài Vợ Nhặt
  • Viết 12 học kì 2