phan tich nhan vat mi trong tac pham vo chong a phu

tập làm văn Phân tích nhân vật của tôi Trong Vợ A Phủ của Tô Hoài lớp 12 bao gồm dàn ý phân tích nhân vật Mị và các bài văn mẫu chọn lọc. Hi vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học sinh phân tích nhân vật Mị hay nhất.
Phân tích nhân vật Mị

Phân tích dàn ý của nhân vật Mị

1. Mở bài

Bạn đang xem: phan tich nhan vat mi trong tac pham vo chong a phu

Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng tác phẩm kỷ lục. Vợ A Phủ là truyện thành công nhất trong 3 truyện ngắn của ông viết về đề tài Tây Bắc. Tác phẩm có giá trị lớn. đậm chất hiện thực và nhân văn. Truyện viết về cuộc sống của nhân dân lao động ở vùng núi cao, dưới ách tàn bạo của bọn thực dân phong kiến ​​miền núi. Đặc biệt, truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mỵ, qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách mạng của người dân Tây Bắc.

2. Cơ thể

Vợ chồng A Phủ in trong tập truyện Tây Bắc (1954). Tập truyện đã được giải Nhất - Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Tác phẩm ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn với bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952.
Vợ chồng A Phủ mở đầu bằng việc giới thiệu nhân vật Mị trong một cảnh tình đầy nghịch lí và thu hút người đọc:
“Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra, thường thấy một cô gái quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh đoàn ngựa. Bao giờ cũng vậy, dù kéo sợi, cắt cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay gánh nước từ suối, bà luôn cúi mặt, nét mặt buồn bã.

Cách giới thiệu tạo nên những tương phản về một cô gái lặng lẽ một mình, lặng lẽ như lẫn với những đồ vật vô tri vô giác: chiếc guồng quay, hòn đá, đoàn tàu ngựa; Cô gái là con dâu của một vị vua quyền lực và giàu có, nhưng tại sao khuôn mặt của cô luôn "buồn bã". Khuôn mặt ấy gợi một số phận bất hạnh, bất hạnh nhưng cũng ẩn chứa một sức mạnh tiềm ẩn.

Tôi đã từng là một cô gái xinh đẹp. Em có sắc đẹp, có khiếu âm nhạc, em thổi sáo giỏi uốn lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. .Thật vậy, tôi đã được yêu, đã từng khao khát được yêu, trái tim tôi đã bao lần xao xuyến trước tiếng hẹn hò của người yêu.
Nhưng cô gái tài hoa vùng cao ấy lại phải chịu một cuộc đời bất hạnh. Để cứu cha, cuối cùng cô đã bán mình và sống như một người con dâu trong nhà của thống đốc.
Tô Hoài đã miêu tả nỗi vất vả về thể xác của người con gái ấy, mang danh là con dâu nhưng thực chất là người hầu. Thân phận của tôi không chỉ là thân trâu, thân ngựa, có khi đêm đêm còn đứng gãi chân nhai cỏ, đàn bà con gái trong nhà ban ngày vùi đầu vào công việc, đêm ngày vùi đầu vào công việc. .

Nhưng nhà văn cũng khắc họa đậm nét nỗi đau khổ về tinh thần của Mị. Một cô Mị mới lớn từng yêu say đắm, nay đã câm nín, “lui như con rùa thu mình trong xó”. Và đặc biệt là hình ảnh căn phòng của Mị đóng lỗ vuông vừa tay, ngồi trong đó lúc nào cũng thấy trăng trắng mờ mờ, không biết là sương hay là nắng. Đó thực sự là một loại địa ngục trần gian giam cầm cơ thể tôi, cách ly tâm hồn tôi với cuộc sống và cầm cố tuổi trẻ và sức sống của cô ấy. Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến ​​ở miền núi nơi đây được cất lên nhân danh quyền sống. Chế độ đó đáng bị lên án, vì nó làm khô kiệt sức sống, dập tắt ngọn lửa niềm vui sống nơi những con người vô cùng đáng sống.

Tôi đã từng muốn chết nhưng không được, vì cô ấy còn khoản nợ của bố. Nhưng khi tôi có thể chết, vì cha tôi không còn nữa, tôi buông tay, kéo dài sự tồn tại của tôi mãi mãi. Lần này cô gái còn đáng thương hơn. Bởi vì muốn chết nghĩa là còn muốn chiến đấu với một sinh mệnh không đến, nghĩa là rốt cuộc vẫn còn sống. Và khi tôi không muốn chết, có nghĩa là sự thiết tha của tôi đối với cuộc sống không còn nữa. Lúc đó, lên núi hay ra đồng, cho ngựa cắt cỏ, gánh nước... chỉ là cái xác không hồn.

Cuộc sống của tôi dường như đã mất. Nhưng bên trong hình ảnh con rùa vẫn có một con người. Khát vọng hạnh phúc có thể bị chôn vùi, lãng quên trong sâu thẳm tâm hồn chai sạn vì đau khổ, nhưng không thể nào tiêu tan. Gặp thời cơ sẽ bùng phát trở lại. Và niềm khát khao hạnh phúc ấy bỗng cháy lên thật nồng nàn, đau đớn trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu.

Bức tranh Hồng Ngải mùa xuân năm ấy có sức làm say đắm lòng người. Những cơn gió se lạnh, màu vàng của cỏ, sự thay đổi màu sắc kỳ diệu của những bông hoa xinh đẹp đã góp phần làm nổi dậy tâm hồn đã nhiều năm tê liệt vì đau khổ. Tác nhân chính là hơi cồn. Tết năm ấy, tôi cũng uống rượu, lén lút uống từng bát, “uống” say rồi ngất đi. Cơn say vừa gây lãng quên, vừa gây nhớ nhung. Tôi quên đi thực tại (thấy ai cũng múa, ai hát mà không nghe, không thấy và khui rượu lúc nào không hay) mà nhớ ngày trước (ngày trước thổi sáo cũng hay lắm... ), và quan trọng hơn, tôi vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có quyền được sống như một con người: “Tôi còn trẻ. Tôi muốn đi chơi. Bao nhiêu người có gia đình cũng đi chơi Tết. Huống chi, tôi với A Sử không có tình cảm với nhau mà vẫn phải ở với nhau”.
Nhưng tác nhân hữu hiệu nhất giúp tâm hồn tôi bay bổng trở lại với những khao khát hạnh phúc, yêu đương có lẽ vẫn là tiếng sáo bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình yêu và của tuổi trẻ. Tiếng sáo cứ văng vẳng trong đầu tôi, nó trở thành tiếng lòng của một thiếu nữ.

Nhân vật Mị trong "Võ trống A Phủ"

Tôi thức dậy với sức sống tiềm ẩn và ý thức về bản sắc. Vì vậy, trong khoảnh khắc ấy, ta thấy Mị đầy mâu thuẫn. Lòng tôi xốn xang, nhưng tôi vẫn theo quán tính bước vào phòng, ngồi xuống giường nhìn ra lỗ vuông có vầng trăng trắng mờ. Và khi ham muốn sống trỗi dậy, ý nghĩ đầu tiên là chết ngay lập tức.
Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi trẻ cứ lớn dần lên, cho đến khi nó hoàn toàn chiếm hết tâm hồn và suy nghĩ của tôi, cho đến khi tôi hoàn toàn chìm trong ảo tưởng: "Tôi muốn đi chơi. Tôi cũng đi chơi". Mãi đến lúc đó, tôi mới hành động như một kẻ mộng du: tết lại tóc, thêm váy hoa, rồi lôi ra một chiếc áo sơ mi. Tất cả những việc ấy, tôi làm như trong mơ, tuyệt nhiên không thấy A Sử bước vào, không nghe A Sử hỏi”.

Rồi chuyện gì đến cũng đã đến. A Sử trói Mị vào cột, rồi lặng lẽ đeo chiếc nhẫn bạc đi ra ngoài, để Mị trong trạng thái mộng du, đắm chìm trong mộng xuân non trẻ, bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Tâm hồn tôi vẫn đang sống ảo, những sợi dây của đời thực không thể làm ngay một kẻ mộng du giật mình tỉnh giấc. Cảm giác hiện tại thật tàn nhẫn, chỉ cảm thấy khi chân đi theo tiếng sáo mà tứ chi đau nhức không cử động được. Nhưng nếu giấc mơ không trở lại, thì sự tỉnh thức cũng vậy. Lại có một khoảng thời gian chập chờn khác giữa mơ và tỉnh, giữa tiếng sáo và tiếng dây thừng đau đớn và tiếng ngựa đá vào tường, nhai cỏ, cào chân. Nhưng bây giờ, ngược chiều, dần dần tỉnh giấc, cơn đau tê tái dần qua đi, để sáng hôm sau lại trở về vị trí con rùa giương lên trong im lặng, mà còn im lìm hơn xưa.

Nhưng có lẽ sức sống trong tôi bùng lên mạnh mẽ nhất khi cởi trói cho A Phủ. Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ phong kiến ​​thống trị ở miền núi. Những va chạm tự nhiên của đôi trai gái trong những đêm tình mùa xuân đã biến A Phủ trở thành kẻ đòi nợ trong nhà thống lí. Và bản năng của một người con sống gắn bó với núi rừng, với đam mê săn bắn đã đẩy A Phủ đến hiện thực phũ phàng: bị trói. Và chính hoàn cảnh éo le ấy đã đánh thức lòng trắc ẩn trong Mị. Nhưng tình yêu ấy không tự nhiên nảy sinh trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh trong thế giới nội tâm của Mị. Những ngày đầu, tôi vô cảm, dửng dưng trước thực tại trước mắt: “A Phủ cũng là cái xác chết đứng đó”. Câu nói như một minh chứng cho sự tê tái trong tâm hồn tôi. Bước ngoặt bắt đầu từ những giọt nước mắt: “Đêm ấy A Phủ đã khóc. Một dòng nước mắt lấp lánh lăn dài trên gò má sạm đen của cô. Và giọt nước mắt kia là giọt cuối cùng làm đầy cốc. Nó đưa tôi từ cõi quên trở về cõi ký ức. Tôi nhớ mình đã bị trói, đau đớn và bất lực. Tôi cũng khóc, nước mắt chảy dài xuống cổ, xuống cằm, tôi không tài nào lau đi được. A Phủ, hay đúng hơn là giọt nước mắt của A Phủ đã giúp ta nhớ đến mình và cảm thấy thương mình.

Và tôi nhớ lại chính mình, nhận ra rằng tôi cũng đã từng đau khổ, chỉ có thể nhìn thấy ai đó đau khổ như tôi. Từ yêu bản thân, Mị dần yêu A Phủ, yêu một người cùng cảnh ngộ. Nhưng nó cũng vượt quá giới hạn yêu thương mình: “Em là đàn bà… em chỉ biết chờ ngày rụng xuống đây và người kia phải chết”. Mị cởi trói cho A Phủ rồi bất ngờ chạy theo A Phủ. Lòng ham sống của một người dường như bùng lên trong Ta, kết hợp với sự sợ hãi và lo lắng cho Ta. Tôi cảm thấy mình đã tìm lại được con người thật của mình, một con người tràn đầy sức sống và khao khát thay đổi số phận.
Nhà văn Tô Hoài đã viết về Mị bằng tất cả tình yêu thương, sự đồng cảm và chỉ có tình yêu đồng cảm, Tô Hoài mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn của những con người say đắm như Mị.

3. Kết luận

Vợ chồng A Phủ qua việc khắc họa sâu sắc cuộc đời, số phận, tính cách của họ đã tố cáo hùng hồn, đanh thép các thế lực phong kiến, bọn thực dân tàn bạo, bọn áp bức, bóc lột và đày đọa những người dân nghèo miền núi. Đồng thời cũng khẳng định khát vọng tự do hạnh phúc, sức sống bền bỉ, mãnh liệt của người lao động. Đặc biệt là đánh giá cao tình cảm giai cấp, tình bạn của những người lao động nghèo khổ. Chính điều đó đã đem lại sức sống và sự vững vàng trước thời gian của vợ chồng A Phủ.

Bài văn mẫu phân tích nhân vật Mị

Phân tích nhân vật Mị – bài 1

Phân tích nhân vật Mị
Tô Hoài là nhà văn rất thành công trong số các nhà văn văn xuôi hiện đại. Các tác phẩm của ông thường viết về những vấn đề quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày. Tác phẩm Vợ chồng A Phủ là tác phẩm viết về đề tài Tây Bắc mang những giá trị sâu sắc. Nhân vật tiêu biểu trong tác phẩm là Mị, một người phụ nữ chịu nhiều bất hạnh nhưng với tâm hồn cao đẹp và sức sống mãnh liệt đã đứng lên đấu tranh để đi tìm hạnh phúc cho mình.

Nhân vật Mị xuất hiện trong lời giới thiệu của tác giả ở đầu truyện gợi cho người đọc một sức hút lạ lùng. Chỉ bằng vài từ, tác giả đã cho người đọc hình dung được cuộc sống khốn khổ mà Mị đang phải chịu đựng trong nhà Pá Tra. “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra, thường thấy một cô gái quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh đoàn ngựa. Bao giờ, dù xe sợi, cắt cỏ ngựa, dệt vải, bổ củi hay gánh nước ở suối, bà đều cúi mặt, nét mặt buồn bã.

Hình ảnh cô gái với vẻ mặt vô hồn và ánh mắt bên cạnh guồng quay, hòn non bộ, đoàn tàu ngựa; Cô gái là con dâu của một vị vua quyền lực và giàu có, nhưng tại sao khuôn mặt của cô luôn "buồn bã". Khuôn mặt ấy gợi một số phận đau khổ, bất hạnh nhưng cũng ẩn chứa một sức mạnh tiềm ẩn.

Trước đó, tôi là một cô gái xinh đẹp của vùng núi Tây Bắc, cô ấy tài năng và xinh đẹp, có một tâm hồn đầy khao khát sống, khao khát tình yêu, có nhiều người yêu và cô ấy cũng đã trao đi tình yêu. cho một chàng trai làng yêu cô tha thiết.

Nhưng số phận may mắn đã không đến với cô, cô gái tài năng vùng cao ấy lại phải chịu một cuộc đời đầy bất hạnh. Để cứu cha, cuối cùng cô đã bán mình và sống như một người con dâu trong nhà của thống đốc. Với danh nghĩa là một người con dâu, cô phải chịu đựng mọi cực khổ của phận làm người hầu hạ. Thân phận của tôi không chỉ là thân trâu, thân ngựa, có khi đêm đêm còn đứng gãi chân nhai cỏ, đàn bà con gái trong nhà ban ngày vùi đầu vào công việc, đêm ngày vùi đầu vào công việc. .

Không chỉ bị dày vò về thể xác mà cô còn bị dày vò bởi nỗi đau tinh thần không thể giải thích được. Một cô Mị mới lớn từng yêu say đắm, nay đã câm nín, “lui như con rùa thu mình trong xó”. Và đặc biệt là hình ảnh căn phòng của Em, đóng kín cửa sổ vuông vức lỗ vuông bằng bàn tay, Em ngồi trong đó luôn thấy ánh trăng trắng mờ mờ, không biết là sương hay là nắng. Đó thực sự là một loại địa ngục trần gian giam cầm cơ thể tôi, cách ly tâm hồn tôi với cuộc sống và cầm cố tuổi trẻ và sức sống của cô ấy. Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến ​​ở miền núi nơi đây được cất lên nhân danh quyền sống. Chế độ đó đáng bị lên án, bởi nó làm khô kiệt sức sống, dập tắt ngọn lửa niềm vui sống nơi những con người vô cùng đáng sống.
Cô rất đau khổ và muốn giải thoát cho mình bằng cái chết, nhưng cô lo lắng cho cha mình nên cố gắng sống. Khi cha không còn, tôi trôi đi, kéo dài sự tồn tại giả tạo của mình, như một vật vô cảm. Muốn chết có nghĩa là vẫn muốn chống lại một cuộc sống không phải là sống, có nghĩa là suy cho cùng vẫn muốn sống. Và khi tôi không muốn chết, có nghĩa là sự thiết tha của tôi đối với cuộc sống không còn nữa. Lúc đó, lên núi hay ra đồng, cho ngựa cắt cỏ, gánh nước... chỉ là cái xác không hồn.

Cuộc sống của tôi trôi qua thất thường từ ngày này qua tháng khác, tưởng rằng con người thật của tôi đã chết. Nhưng bên trong hình ảnh con rùa vẫn là một con người với khát vọng sống mãnh liệt. Khát vọng hạnh phúc có thể bị chôn vùi, lãng quên trong sâu thẳm tâm hồn chai sạn vì đau khổ, nhưng không thể nào tiêu tan. Gặp thời cơ sẽ bùng phát trở lại. Và niềm khát khao hạnh phúc ấy bỗng bùng cháy, thật nồng nàn, đau đớn trong một đêm xuân ngập tràn tiếng gọi của tình yêu.

Chính không khí xuân Hồng Ngải năm ấy đã khơi dậy sức sống của người dân Mỹ. Những cơn gió se lạnh, màu vàng của cỏ, sự thay đổi màu sắc kỳ diệu của những loài hoa xinh đẹp đã góp phần làm nổi dậy trong một tâm hồn đã tê liệt vì đau khổ bao nhiêu năm. Tác nhân quan trọng là hơi cồn. Tết năm ấy, tôi cũng uống rượu, lén lút uống từng bát, “uống” say rồi ngất đi. Cơn say vừa gây lãng quên, vừa gây nhớ nhung. Tôi quên đi thực tại (thấy ai cũng nhảy, ai cũng hát nhưng không nghe không thấy, uống rượu bao giờ cũng không hay) mà nhớ ngày trước (ngày xưa thổi sáo cũng giỏi... ), và quan trọng hơn, tôi vẫn nhớ mình là con người, vẫn có quyền sống như một con người: “Tôi còn trẻ. Tôi muốn đi chơi. Bao nhiêu người có gia đình cũng đi chơi Tết. Hơn nữa, tôi và A Sử không có tình cảm với nhau mà vẫn phải ở với nhau”.

Tiếng sáo thật ý nghĩa bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Tiếng sáo cứ văng vẳng trong đầu tôi, nó trở thành tiếng lòng của một thiếu nữ. Tôi thức dậy với sức sống tiềm ẩn và ý thức về bản sắc. Vì vậy, trong khoảnh khắc ấy, ta thấy Mị đầy mâu thuẫn. Lòng tôi xốn xang, nhưng tôi vẫn theo quán tính bước vào phòng, ngồi xuống giường, nhìn ra lỗ vuông có vầng trăng trắng mờ. Và khi ham muốn sống trỗi dậy, ý nghĩ đầu tiên là chết ngay lập tức.

Hòa mình vào không khí rộn ràng của mùa xuân, tâm hồn tưởng chừng như đã chết của tôi dần được sưởi ấm, nó lớn dần và hoàn toàn chiếm lĩnh toàn bộ tâm hồn và suy nghĩ của tôi, cho đến khi tôi hoàn toàn chìm đắm trong đó. trong ảo giác: “Tôi muốn đi chơi. Em cũng đi chơi đây". Mãi đến lúc đó tôi mới diễn như người mộng du: tết lại tóc, thêm váy hoa, rồi lôi áo ra. Tất cả những việc đó, tôi đều làm như trong mơ, hoàn toàn làm được. không thấy A Sử bước vào, không nghe A Sử hỏi.

Dù bị A Sử trói vào cột, Mị vẫn chìm đắm trong những giấc mộng xuân trẻ, bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Tâm hồn ta còn đang sống ảo, những sợi dây thừng của đời thực không thể làm ngay giật mình người mộng du. Cảm giác hiện tại thật tàn nhẫn, chỉ cảm thấy khi chân bước theo tiếng sáo mà chân tay đau nhức không cử động được. Nhưng nếu giấc mơ không trở lại, thì sự tỉnh thức cũng vậy. Lại có một khoảng thời gian chập chờn khác giữa mơ và tỉnh, giữa tiếng sáo và tiếng dây thừng đau đớn và tiếng ngựa đá vào tường, nhai cỏ, cào chân. Còn bây giờ, ngược chiều, tỉnh dần, đau tê dần, để sáng hôm sau lại trở về vị trí rùa nuôi trong im lặng, mà còn im lìm hơn xưa.

Sức sống le lói của bạn đã bùng nổ thành hành động, đó là hành động cởi trói cho A Phủ. Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ phong kiến ​​thống trị ở miền núi. Những va chạm tự nhiên của tuổi trẻ trong những đêm tình mùa xuân đã biến A Phủ trở thành kẻ đòi nợ trong nhà thống lý. Và bản năng của một người con sống gắn bó với núi rừng, với đam mê săn bắn đã đẩy A Phủ đến hiện thực phũ phàng: bị trói. Và chính hoàn cảnh éo le ấy đã đánh thức lòng trắc ẩn trong Mị. Nhưng tình yêu ấy không tự nhiên nảy sinh trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh trong thế giới nội tâm của Mị. Những ngày đầu, tôi vô cảm, dửng dưng trước thực tại trước mắt: “A Phủ cũng là cái xác chết đứng đó”. Riêng câu nói đã chứng tỏ tâm hồn tôi tê tái. Bước ngoặt bắt đầu từ những giọt nước mắt: “Đêm ấy A Phủ đã khóc. Một dòng nước mắt lấp lánh lăn dài trên gò má sạm đen của cô. Và giọt nước mắt kia là giọt cuối cùng làm đầy cốc. Nó đưa tôi từ cõi quên trở về cõi ký ức. Tôi nhớ mình đã bị trói, đau đớn và bất lực. Tôi cũng khóc, nước mắt chảy dài xuống cổ, xuống cằm, không tài nào lau đi được. A Phủ, hay đúng hơn là giọt nước mắt của A Phủ đã giúp Mị nhớ đến mình và thương mình.

Con người tôi giờ đây đã tỉnh ngộ, tôi ý thức được những đau khổ mà mình phải chịu đựng và cảm thấy xót xa cho người cùng cảnh ngộ với mình là A Phủ. Nhưng nó cũng vượt quá giới hạn yêu thương mình: “Tôi là đàn bà… tôi chỉ biết chờ ngày bỏ xương xuống đây và người kia phải chết”. Nhưng khi cởi trói cho A Phủ xong, Mị tỉnh táo hơn và bất ngờ chạy theo A Phủ. Lòng ham sống của một người dường như bùng lên trong Ta, kết hợp với sự sợ hãi và lo lắng cho Ta. Tôi cảm thấy như đã tìm lại được con người thật của mình, một con người tràn đầy sức sống và khao khát thay đổi số phận.

Phải nói rằng nhà văn đã có sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống của người dân Tây Bắc, có sự đồng cảm sâu sắc với những người phụ nữ nơi đây, chỉ có nhà văn mới khám phá được vẻ đẹp ẩn sâu bên trong. trong lòng người phụ nữ bất hạnh ấy.

Thông qua nhân vật Mị, nhà văn đã đại diện cho toàn thể nhân dân tố cáo các thế lực phong kiến ​​đã áp bức, bóc lột, chà đạp lên quyền sống cơ bản của con người. Qua nhân vật ấy, Tô Hoài ca ngợi khát vọng sống mãnh liệt, khát vọng tự do, hạnh phúc của những con người nghèo khổ ấy, đồng thời thể hiện tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, tình thương yêu giai cấp của dân tộc Việt Nam trong cuộc sống. gian khổ.

Phân tích nhân vật Mị – bài 2

Phân tích nhân vật Mị
"Vợ chồng A Phủ" là một truyện ngắn trong tuyển tập "Truyện Tây Bắc" của Tô Hoài, đã đoạt giải nhất về tiểu thuyết, Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Tác phẩm ra đời từ kết quả của sự thâm nhập cuộc sống. đồng bào các dân tộc vùng cao Tây Bắc, kể về cuộc sống khổ cực của đồng bào vùng cao khi chưa có ánh sáng của Đảng. Đọc “Vợ chồng A Phủ” ta không thể quên chi tiết Mị cắt dây trói cứu A Phủ - một chi tiết làm nên giá trị toàn bộ tác phẩm. Và, như ai đó đã từng nói, khi cắt dây cứu A Phủ là cắt luôn sợi dây trói buộc đời mình với thống lí Pá Tra.

Có thể nói, toàn bộ đoạn trích trong văn bản "Văn 12" là tất cả những ngày tháng gian khổ mà Mị đã phải trải qua (từ khi vào nhà thống lí Pá Tra đến khi Mị và A Phủ trốn thoát. Với một dung lượng vừa phải truyện ngắn, Tô Hoài đã thể hiện một cách chân thực và nghệ thuật quá trình biến đổi của Mị, từ lúc rũ bỏ thân phận nô lệ cho đến khi tỉnh ngộ và tự giải thoát khỏi ách nô lệ của A Phủ. Truyện của Mị mở đầu bằng một hình ảnh rất gợi: “Ai ở xa về, phải vào nhà Pá Tra, thường thấy một cô gái ngồi quay sợi gai trên tảng đá, cạnh một đoàn tàu. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, cắt cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay gánh nước từ con lạch, em hay cúi mặt, mặt buồn”, chỉ với hai câu đơn giản ấy mà nguyên bản. Chất sự việc hiện lên khá rõ, câu từ cũng được kéo dài để người đọc hiểu tường tận. Vị trí và ngoại hình của em nói hết, ngồi quay gai bên tảng đá, cạnh toa tàu. Hình ảnh nào đắt giá hơn chi tiết ấy?

Xem thêm: Tổng hợp 9 shop bán giày Sneaker ở Hà Nội đẹp và uy tín

Tôi vốn là con nhà nghèo – “nghèo từ trong trứng nước”; cô trẻ đẹp, giàu tình yêu đời, ham sống và có tài thổi sáo; Mị cũng là một cô gái chăm chỉ, một người con hiếu thảo… Thế nhưng, như một món nợ “gia truyền” của nhà nghèo, Mị phải “đi tù khổ sai” trong nhà thống lí Pá Tra, trong thân phận một nàng dâu lận đận. nợ. Biết bao số phận người dân miền núi đã bị trả giá bằng cả cuộc đời, bằng hình thức cho vay nặng lãi.

Lúc đầu ở trong “ngục Pá Tra”, Mị đau đớn, uất ức, phản kháng quyết liệt. "Suốt mấy tháng trời đêm nào tôi cũng khóc". Cô không thể chấp nhận làm nô lệ cho nhà giàu. Nhưng, tất cả đã là số phận. Nàng Kiều của Nguyễn Du trước khi dấn thân vào cuộc đời ô nhục đã hơn một lần tưởng chừng hy sinh tính mạng nhưng không sao thoát khỏi 15 năm đọa đày. Ở đây, tôi càng đau khổ hơn, bởi nợ vẫn còn đó, đổ lên đầu bố già. Trong địa ngục trần gian của nhà thống lí Pá Tra, những cực nhọc, tủi nhục nhất đều đổ lên đầu Mị. Mấy năm sau khi cha đỡ đầu qua đời, tôi không còn nghĩ đến cái chết nữa, vì “chịu khổ quen rồi, giờ nghĩ mình cũng là con trâu, con ngựa (…) chỉ biết lủi thủi”. ăn cỏ và làm việc." Cuộc đời tôi chỉ là hết công việc này đến công việc khác, năm nào, mùa nào, tháng nào, tôi làm đi làm lại: sau Tết hái thuốc phiện, giữa năm giặt đay xe đay, cuối năm mùa tôi đi bẻ ngô... more Sự dằn vặt về thể xác cũng như ách mê tín và thần quyền về tâm linh đã tiếp sức rất nhiều cho giai cấp thống trị. Đó thực sự là một thứ “thuốc phiện tinh thần” như lời của Các Mác.

Không chỉ dừng lại ở đó, ở mức độ sâu xa hơn, ngòi bút Tô Hoài còn nêu lên một sự thật đau xót: những người bị áp bức nếu cứ nhẫn nhục chịu đựng, kéo dài đến một thời điểm nhất định sẽ bị tê liệt. tinh thần phản kháng. “Càng ngày càng không nói, lui như rùa nuôi một góc” thật chẳng đâu vào đâu, tính mạng và nhân cách con người lại bị coi thường như vậy! Không ở đâu mà người ta lại coi thường mình một cách tuyệt vọng như vậy. Tôi cam chịu thân phận con rùa nuôi trong góc cửa, chỉ ngồi trong phòng đóng cửa, nhìn ra ô cửa sổ vuông vức trăng trắng mờ ảo, “cho đến khi chết”.

Khi một “nạn nhân” đang đau khổ và vẫn tìm đến cái chết để tìm sự giải thoát, liệu trong họ có còn chút gì gọi là phản kháng? Tôi cũng có khoảng thời gian đó, nhưng nó đã bị phá hủy và cô ấy dường như đã phó mặc thân phận của mình cho số phận, không còn cảm giác về thời gian nữa. Đối với Mị, sự đổi thay của những sớm tối, năm tháng trôi qua không còn ý nghĩa, không gợi cho cô một cảm xúc nào, cuộc đời chỉ là một màn sương mờ đục, không có hiện tại, quá khứ và tương lai.

Nhưng, đó chỉ là một phần con người tôi. Sức mạnh nhân đạo của nhà văn Tô Hoài không chỉ dừng lại ở niềm thương xót Mị, ở việc tố cáo sự tàn bạo của giai cấp thống trị mà còn ở việc nhìn ra con người bên trong của nhân vật. Ông đi tìm sâu vào trong tầng sâu của ý thức và trong sâu thẳm tiềm thức của nhân vật, cho thấy đâu đó vẫn còn le lói một tia sáng, hơi ấm của lòng ham sống, khát vọng hạnh phúc, như lớp tro nguội dày đặc vẫn đang ủ. than hồng nhỏ, lớp than đó chỉ cần một làn gió nhẹ là bùng lên. Tô Hoài đã bổ sung vào nền văn học nhân đạo truyền thông dân tộc một tiếng nói có nội lực và sức tái tạo riêng.

Như đã nói ở phần đầu, tôi có một tuổi trẻ sung sướng, khát khao làm chủ cuộc sống cá tính đó, phẩm chất đó không bao giờ chết, nó chỉ bị dập tắt tạm thời. Và ngọn gió thổi bùng ngọn lửa trong lòng là một tình huống điển hình: mùa xuân đến trên vùng cao: “Hồng Ngãi năm ấy, đón Tết gió thổi vàng cỏ, gió rét căm căm”. . Ngay cả trong thời tiết khắc nghiệt, mùa xuân cũng mang đến cho người dân vùng cao niềm vui được sống trong một mùa bội thu. Sức sống của vạn vật và con người như bừng tỉnh: “Ở các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa được mang ra treo trên những chỏm dài xòe rộng như những cánh bướm sặc sỡ. Hoa anh túc vừa nở màu trắng, sau chuyển sang màu đỏ, thậm chí là đỏ rực, rồi sang màu tím dịu. Lũ trẻ chờ Tết, chơi quay, cười đùa trên sân chơi trước nhà…”.

Hoàn cảnh đó không khỏi ảnh hưởng đến tâm hồn tôi. Trong số những “ngoại lực” của mùa xuân phải kể đến tiếng sáo: “Ngoài đỉnh núi có tiếng sáo gọi em đi chơi Nghe tiếng sáo em đi chơi”. vọng lại, bồi hồi…”. Như vậy, với Mị, tiếng sáo là biểu tượng hấp dẫn nhất của tình yêu, của khát vọng sống. Trong không khí ấy, Mị lại bị kích thích bởi men rượu: “Ta lén lấy một hũ rượu, chỉ nốc từng bát". Cách uống ấy như báo trước một sự nổi loạn mà chính tôi cũng không hề hay biết: "Rồi tôi say, ngồi nhìn mọi người nhảy đồng (…), và tôi sống. ngày trở lại”.

Bằng cách nhớ lại quá khứ, tôi đã vượt qua trạng thái "vượt thời gian" lâu nay của mình. Sau đó, khát vọng sống trong cô trỗi dậy mạnh mẽ: “Tôi lại thấy phơi phới”. Phản ứng đầu tiên hiện lên trong đầu tôi là một ý nghĩ: “Nếu bây giờ mình cầm một lá ngón trên tay, mình sẽ ăn cho chết ngay, không nghĩ lại…”. Ý nghĩ về cái chết bây giờ, là một sự phản kháng quyết liệt đối với tình hình.

Trong khi đó, tiếng sáo gọi người yêu cứ giục giã, quyến rũ Mị. Nó là biểu tượng của cuộc đời mà tôi đã quên từ lâu, nay trở lại. Tiếng sáo theo sát diễn biến tâm hồn nhân vật. Tiếng sáo từ chỗ là sự vật của hiện thực bên ngoài (trôi nổi ngoài đường), trở thành sự tồn tại của đời sống nội tâm (cuốn xoáy trong đầu).

Từ những thay đổi trong suy nghĩ, tôi đã có một hành động ý nghĩa. “Tôi ra góc nhà, mở ống tuýp ra, cuộn lại một đoạn cho vào đèn cho thêm sáng”. Hành động này có nghĩa là tôi đã thắp lên một ngọn đèn, soi sáng cuộc đời tăm tối vĩnh viễn trong quá khứ. Giữa lúc khát vọng sống mãnh liệt cũng là lúc nó bị vùi dập một cách tàn nhẫn. A Sử bước vào, thản nhiên lấy ra một thúng sợi đay trói Mị vào cột nhà. Suốt đêm ấy, bị trói vào cột, tôi sống trong sự giằng xé dữ dội giữa khát vọng hạnh phúc cháy bỏng và hiện thực tàn khốc lạnh lùng. Lúc mới bị trói, tôi còn sống mê mẩn với tiếng sáo. Tôi quên mình đang bị trói, quên nỗi đau thể xác, đến nỗi trong giây phút khát khao sống mãnh liệt, tôi đã “bỏ đi”. Nhưng, thực tế phũ phàng là xiềng xích siết chặt, khát khao của tôi dù mạnh mẽ đến đâu cũng không vượt qua được. Hai biểu tượng mộng và thực hiện lên trong hai âm thanh tương phản, tiếng sáo tha thiết gọi bạn tình và tiếng chân ngựa dẫm lên bức tường khô.

“Tôi không nghe tiếng sáo nữa, chỉ còn tiếng chân ngựa đập vào tường (…) Tôi thổn thức nghĩ mình không bằng ngựa – hiện thực khắc nghiệt bóp nghẹt những khát vọng tươi sáng. Đoạn kết ấy cho thấy, chỉ có tự phát phản kháng, nhân vật không thể tự giải thoát; đồng thời nó cũng hứa hẹn những cuộc nổi dậy của nhân vật trong tương lai.

Sau đêm xuân bị trói, tình trạng hôn mê của tôi có phần nghiêm trọng hơn. Trước cảnh A Phủ bị trói, thoạt đầu tôi là một con người hoàn toàn vô cảm, vô hồn; Cô vẫn bình tĩnh thổi ngọn lửa trên tay. A Phủ là một xác chết đứng đó, tôi cũng vậy. Đôi mắt mở to của A Phủ khiến tôi không nhớ gì cả. Nhưng như đã nói ở đoạn trên, khát vọng đi theo tiếng gọi tự do vẫn còn đó trong tâm hồn tôi. Không phải ngẫu nhiên, hình ảnh ngọn lửa được tác giả nhắc lại nhiều lần trong một đoạn văn ngắn. Đây là đoạn miêu tả tâm lí nhân vật khá sâu sắc và tế nhị. Nhưng, điều gì đã khiến tôi trở về với con người thật của mình? Một lần, khi tỉnh dậy, khi “ánh lửa bập bùng thắp lên, Mị mở mắt ra thấy A Phủ vừa mở mắt, một dòng nước mắt long lanh bò trên gò má sạm đen”. Ôi nước mắt! Giọt đau thương ấy làm tôi “chợt nhớ” chuyện mình bị trói mấy năm trước, nước mắt cứ thế tuôn rơi mà không sao lau được; Làm tôi nhớ đến người phụ nữ bị trói đến chết trong ngôi nhà này, và A Fu chỉ chết đêm nay. Tết năm ngoái cũng thế, lần này ký ức tôi chợt lóe lên trong vô thức. Và như một phản ứng dây chuyền, nó kết nối lại ba số phận. Tôi không còn sống với lửa nữa. Ngọn lửa biến mất nhưng cô ấy không thổi. Tôi rơi vào ảo mộng.

Tôi nghĩ mình có thể chết thay cho A Phủ. Mị đứng lên trong cảm giác chấp nhận hi sinh bản thân: lấy con dao nhỏ cắt dây trói cho A Phủ. Đó là đỉnh cao của cuộc đời tôi và cũng là nơi tập trung những giá trị của văn chương. Hành động của tôi, mặc dù không thể đoán trước, nhưng vẫn nằm trong sức sống nội tại của nhân vật. Bởi vì, tôi đã từng tình nguyện làm ruộng, chịu khổ để trả nợ cho cha, định chết để tìm sự giải thoát, sao tôi không dám chết để cứu một người vô tội?

Nhưng, cá tính. Tôi có sự hợp lý, có quy luật nhưng vẫn gây cho chúng tôi những bất ngờ, những bất ngờ thú vị. Chỉ nghĩ đến việc có thể chết thay cho A Phủ, nhưng khi A Phủ bỏ chạy, Mị đứng lặng trong bóng tối rồi chạy theo. Một kết cấu chặt chẽ: Tôi đã cứu A
Fu, vậy tại sao không tự cứu mình? Và “hai người lặng lẽ đỡ nhau xuống núi”. Thực ra, quá trình Mị cắt dây trói chạy theo A Phủ là một quá trình tự nhận thức: nhận thức hiện thực xã hội tàn khốc, lạnh lùng. Mị cứu A Phủ, vì Mị nhìn thấy sự bất công, phi lí khi giết một người vô tội, và nhận thức của “người” cũng là để nhận thức và soi sáng “mình”, nên có thể nói, Mị đã cắt dây cứu A Phủ. A Phủ, cũng chính Mị là người cắt dây trói Mị với thống lí Pá Tra. Điều đó hoàn toàn đúng với lý luận cũng như thực tiễn của thời đại. Dòng đầu tiên của Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, F. Ăngghen đã từng khẳng định: “Lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp. Giai cấp thống trị bị áp bức, bóc lột càng nặng nề thì đấu tranh càng mạnh mẽ.

Tuy nhiên, phần kết của tác phẩm, ta có thể thấy, truyện cổ tích này do Tô Hoài sáng tác sau Cách mạng tháng Tám. Cách đây không lâu, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyên Hồng… đều không tìm được lối đi cho nhân vật của mình. Và Tôi cũng như nhiều nhân vật khác trong các tác phẩm văn học cách mạng đã tìm ra con đường giải phóng chân chính, biết tự “cởi trói” cho mình trong quá trình đến với Cách mạng. Tô Hoài đã có được một tác phẩm ý nghĩa, góp vào kho tàng con người Việt Nam tiến bước dưới lá cờ vẻ vang của Đảng. Tôi là nhân vật thành công nhất trong văn xuôi cách mạng Việt Nam đương đại. Điều này chỉ có thể đạt được khi tác phẩm “chín” về mặt nghệ thuật và đứng trên những đỉnh cao về tư tưởng.

Gần nửa thế kỷ trôi qua, Vợ chồng A Phủ vẫn đứng trước thử thách của thời gian và dư luận; Nó như minh chứng cho sức sống bất diệt của nghệ thuật. Và tôi xin dùng lời của Sedrin để kết thúc bài viết này: “Văn học nghệ thuật luôn đứng ngoài quy luật của sự băng hoại.

Phân tích nhân vật Mị – bài 3

Phân tích nhân vật Mị
Ở Việt Nam không ai là không biết nhà văn Tô Hoài. Vì tập truyện “Dế mèn phiêu lưu kí” đã nổi tiếng và gắn liền với tên tuổi của ông. Ông là một trong những nhà văn hiện thực đến với cách mạng sớm nhất. Và một trong những tác phẩm xuất sắc của ông trong thời kỳ kháng chiến ác liệt đó là “Vợ chồng A Phủ”.

“Vợ chồng A Phủ” là kết quả của chuyến đi tham gia chiến dịch Tây Bắc của tác giả sinh năm 1952 trong tập “Truyện Tây Bắc”. Một trong những thành công của Tô Hoài trong truyện ngắn này là đã xây dựng nhân vật Mị đại diện cho cuộc đời đau khổ, tủi nhục của người phụ nữ dưới ách thống trị của bọn phong kiến ​​và bọn chúa đất miền sơn cước.

Ngay từ những dòng đầu tiên của truyện, nhà văn đã để Mị hiện lên vẻ u sầu. “Ai về từ phương xa, đã đến nhà thống lý Pá Tra” còn thấy một người đàn bà “ngồi bên tảng đá”, “cạnh xe ngựa”, “mặt buồn rười rượi”. Tác giả đặt Mị đối lập với mọi thứ xung quanh và tập trung miêu tả ngoại hình của Mị. Nàng ngồi bên tảng đá cằn cỗi, thân phận tủi nhục, tủi nhục đối lập với cuộc sống giàu sang, bận rộn của nhà thống lý. Chỉ bằng mấy câu văn, Tô Hoài đã gợi ra trước mắt người đọc một số phận đau khổ, nhẫn nhục, rối ren. Và từ sự xuất hiện ấy, tác giả đã kể về cuộc đời cơ cực, bất hạnh của nàng.

Cái tôi đầu tiên là tài năng, lòng hiếu thảo và lòng tự trọng. Trước khi về làm vợ quan tổng đốc, tôi là một thiếu nữ xinh đẹp, thổi sáo giỏi hơn thổi sáo. Trong những đêm tình mùa xuân, “trai làng đứng đầu phòng em”. Không chỉ vậy, cô còn là một người con hiếu thảo, chăm chỉ và giàu lòng tự trọng. Nhà tôi nghèo, cha mẹ tôi có duyên nợ với nhà thống lý. Nhưng khi biết mình phải làm vợ thống đốc, cô lại không muốn. Kể từ đó, cô luôn làm việc như một nông dân để trả nợ cho cha mình. “Con lớn rồi, biết cuốc đất làm ngô, đừng bán cho nhà giàu”. Cô ấy hiếu thảo và yêu cha mình. Nhưng rồi nàng cũng bị A Sử bắt về làm vợ. Chỉ vì món nợ truyền thống ấy mà tôi phải làm dâu để xóa nợ cho nhà thống lý. Tôi vừa là con nợ, vừa là con dâu. "Tôi đã khóc mỗi đêm trong vài tháng đầu tiên." Với nắm lá trên tay, tôi đến lạy cha chết nhưng nợ chưa trả hết, con thương cha không chết được. Lòng hiếu thảo đã không cho phép tôi tự kết liễu đời mình. Vì lòng hiếu thảo đó Mị đã chấp nhận cuộc sống cực khổ ở nhà thống lí Pá Tra.

Bị bắt làm dâu để lừa gạt, lấy danh nghĩa làm dâu nhưng thực chất em đã trở thành nô lệ không công cho nhà thống lý. Tôi bị bóc lột cả về thể xác lẫn tinh thần. Tôi phải làm việc ngày đêm vất vả hơn cả mạng sống của trâu ngựa”, trâu ngựa ban đêm còn đứng gãi chân nhai cỏ, đàn bà con gái suốt ngày vùi đầu vào làm việc. cả đêm". Căn phòng em ở không khác gì nhà tù “chỉ có một cái lỗ vuông cỡ bàn tay nhìn ra ngoài chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Chính hoàn cảnh này đã thay đổi tôi. Cô gái tài năng và xinh đẹp trở nên lầm lì, vô cảm. "Ngày nào không nói chuyện, lui như rùa ở một góc." "Bây giờ tôi nghĩ tôi cũng là một con ngựa." “Ở khổ lâu rồi, khổ quen rồi”. Cuộc sống tăm tối và đau khổ khiến tôi bị tê liệt tinh thần. Điều này thể hiện rõ nhất trong những đêm đầu tiên A Phủ bị trói. Tôi thấy A Phủ bị trói mà không mảy may quan tâm. Tôi không lạ gì gia đình thống đốc bị trói như thế, nên tôi vẫn thản nhiên ngồi sưởi ấm ngọn lửa trong đêm lạnh ở vùng cao này. "A Fu chỉ là cái xác không hồn."

Dù bị tê liệt về tinh thần nhưng đâu đó trong tâm hồn tôi vẫn có một sức sống tiềm ẩn mạnh mẽ. Điều đó được thể hiện rõ qua diễn biến tâm trạng của em trong đêm tình mùa xuân. Với khung cảnh thiên nhiên rực rỡ, rộn ràng của ngày Tết, tiếng sáo gọi bạn tình, men rượu say, tôi dần thay đổi tâm trạng. Tôi nhớ ngày xưa. Tôi cảm thấy “lòng bỗng phơi phới trở lại”. Tôi ý thức được “tôi còn rất trẻ”. Tiếng sáo tha thiết mời gọi. Tất cả đã dẫn đến hành động Tôi muốn đi du xuân. Men rượu nồng nàn đốt lên ngọn lửa sức sống trong Em. Dù bị chà đạp nhưng sức sống của em vẫn như hòn than hồng trong đống tro tàn chỉ chực chờ thời cơ để bùng cháy. Tôi đã không mất tất cả niềm đam mê của tôi cho cuộc sống.

Không chỉ có một sức sống tiềm tàng mạnh mẽ mà em còn có sự đồng cảm với những người cùng cảnh ngộ với mình. Sự đồng cảm ấy tiềm ẩn trong tâm hồn tôi từ lâu đã chai cứng một phần. Nhưng không vì thế mà mất đi. Sự đồng cảm đó phải được đánh thức. Và A Phủ là người đã đánh thức nó. Khi “hai hàng nước mắt bò trên gò má xám xịt” của A Phủ, Mị mới bắt đầu tỉnh giấc. Tôi nhớ cảnh tôi bị trói và cô ấy cảm thấy tội nghiệp cho chính mình. Làm tôi nhớ đến một người phụ nữ trước đây đã bị trói đến chết trong ngôi nhà này. Rồi tôi lại nhìn A Phủ. “Chắc nay mai người này chết, chết đau, chết đói, phải chết”. Lúc này tôi mới nhận ra tội ác của hai cha con “chúng thật dã man”. Nỗi thương cảm A Phủ ngày một lớn dần rồi nó lấn át cả nỗi sợ hãi trong tôi. Nó tạo ra một sức mạnh to lớn để dẫn đến hành động, Mị cởi trói cho A Phủ và chạy theo hắn trốn khỏi nhà thống lý. Chạy theo A Phủ tức là tôi chạy theo tiếng gọi của tự do, tiếng gọi của hạnh phúc. Khát vọng tự do, hạnh phúc càng đẩy bước chân tôi nhanh hơn để thoát khỏi địa ngục trần gian nơi nhà thống lý. Chi tiết này đã thể hiện ngòi bút nhân đạo của tác giả.

Thông qua việc miêu tả số phận, Tô Hoài đã mang đến một cô gái ngoan hiền, hiếu thảo và ngoan ngoãn. Nổi bật trong con người chị là sức sống mãnh liệt tiềm ẩn và khát vọng tự do, hạnh phúc. Mị là nhân vật thể hiện rõ giá trị nhân đạo của tác phẩm. Đó là một trong những điểm hấp dẫn của “Vợ chồng A Phủ” đối với người đọc.

Phân tích nhân vật tôi trong đêm tình mùa xuân

Phân tích nhân vật Mị
Tô Hoài là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông được mệnh danh là nhà văn của vùng núi Tây Bắc. Các tác phẩm của anh tái hiện sinh động phong tục tập quán của người dân miền núi. “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn xuất sắc của Tô Hoài được rút ra từ tập “Truyện Tây Bắc”. Tác phẩm tái hiện cuộc đời và số phận của Mị và A Phủ trong hai thời kì họ ở Hồng Ngài và Phiên Sa. Truyện thể hiện rất thành công diễn biến tâm lí nhân vật tài hoa của Tô Hoài. Đặc biệt, đoạn trích miêu tả diễn biến tâm lí và hành động của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân.

Em là nhân vật trung tâm của tác phẩm, em mang những nét tiêu biểu của người con gái miền núi Tây Bắc. Tôi là một cô gái xinh đẹp yêu đời. Thời trẻ, cô có tính cách phóng khoáng, tự do; một trái tim ấm áp, căng tràn sức sống, khao khát yêu và được yêu. Tôi cũng là một cô gái tài năng. Cô ấy thổi sáo rất hay, không những thế, cô ấy thổi lá cũng giỏi như thổi sáo nên có rất nhiều người thổi sáo hàng đêm đi theo Em. Những đêm tình mùa xuân, trai làng đến đứng tựa vách phòng Em. Tất cả những điều đó như báo trước một cuộc sống tươi đẹp, nhiều ước mơ, khát khao hạnh phúc dù cuộc sống còn nhiều khó khăn. Nhưng thật không may, tôi đã trở thành nạn nhân của cường quyền và thần quyền của vùng Tây Bắc. Chỉ vì món nợ kéo dài của gia đình và lần làm lễ cúng ma nhà thống lý mà tôi đã mãi mãi trở thành đứa con dâu con nợ của nhà Pá Tra, để rồi từ đây cuộc đời tôi bị thay đổi hoàn toàn. Vốn là một cô gái tràn đầy sức sống, tôi trở thành một cô gái mất hết ý chí với cuộc sống, em ngày càng ít nói “như con rùa nhốt trong xó”, coi mình như một công cụ lao động. rục rịch, như trâu ngựa trong nhà thống lí Pá Tra.

Tôi cứ nghĩ cuộc đời mình sẽ như thế mãi, sống mãi trong bóng tối của địa ngục, không còn ý định giải thoát cho mình nữa. Nhưng không, sức sống ấy không hề tiêu tan trong tâm hồn chai sạn vì quá nhiều đau khổ mà nó chỉ tạm thời lụi tàn, như ngọn lửa nhỏ nằm dưới đống tro tàn chờ dịp bùng lên mạnh mẽ.

Khung cảnh mùa xuân năm ấy đã tác động vào tâm hồn tôi với những ngọn gió thổi trên ngọn cỏ vàng và sắc màu sặc sỡ của những chiếc váy hoa phơi nắng trải dài trên vách đá như những cánh bướm. Những yếu tố đó lại khiến trái tim tôi rung động. Tôi lẩm nhẩm hát theo câu hát của người thổi sáo, “tiếng sáo gọi bạn trên đỉnh núi” vang vọng. Tuy nhiên, sức sống tiềm ẩn trong tâm hồn tôi chỉ thực sự bùng lên mạnh mẽ nhất trong đêm tình mùa xuân.

Tôi uống rượu ngày Tết say khướt, ngồi giữa nhà. Mùi rượu và “tiếng sáo gọi bạn tình phảng phất đầu phố” kéo tôi ra khỏi thực tại. Chẳng biết rượu đã tan từ bao giờ mà người đi đã về hết rồi. Tôi vẫn ngồi đó. Tâm hồn tôi đang sống trong quá khứ. Tôi nhớ “mùa xuân này tôi ngồi thổi sáo bên bếp lửa, tôi uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như sáo, có biết bao người mê sáo ngày đêm theo tôi”. Trong đầu tôi nhớ lại những kỉ niệm tưởng chừng đã quên. Nhưng quan trọng hơn, tôi đã đánh thức được sức sống trong tâm hồn mình. Tôi vẫn nhớ, tôi vẫn ý thức được mình, tôi vẫn là một con người, tôi còn trẻ. Nhưng bỗng hiện thực phũ phàng ùa về khiến tôi đau đớn “nếu lúc này mà có lá ngón vào tay, tôi ăn cho đến chết chứ không còn nhớ gì nữa”. Điều này chứng tỏ sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy trong tâm hồn tôi. Khi một người muốn chết, đấu tranh một cách có ý thức để thoát khỏi cuộc sống vô nghĩa, nghĩa là lúc đó người ta đang tha thiết sống.

Nhưng ngay sau đó, diễn biến tâm lý và hành động của Mị đầy mâu thuẫn. Tôi muốn ra ngoài, được sống tự do muôn năm, nhưng tôi không bước ra đường mà từ từ bước vào phòng, ngồi trên giường nhìn ra khung cửa sổ vuông vắn - ngục tù của tâm hồn tôi. Lúc này trong tâm hồn tôi diễn biến hết sức phức tạp, có sự đấu tranh gay gắt giữa một bên là sức sống mãnh liệt, khát khao hạnh phúc và một bên là hiện thực cuộc sống, mặc cảm về thân phận. Nhưng rồi dục vọng đã chiến thắng, tôi cho thêm một miếng mỡ vào đĩa đèn để thắp sáng, quấn tóc và sửa soạn váy áo để ra ngoài. Lúc này tôi không còn sống trong thực tại mà chỉ nhớ về quá khứ, hồn tôi theo tiếng sáo đến với những cuộc chơi. Rồi A Sử quay lại, hỏi Mị, trói Mị vào một cái cột. Mặc cho A Sử trói tay bằng dây lưng, buộc tay bằng thúng đay, buộc tóc vào cột mà Mị vẫn không hề hay biết. Trong đầu tôi vẫn văng vẳng tiếng sáo “Ta không yêu đồng cân rơi - ta yêu ai - ta bắt đồng cân”. Chỉ đến khi định bước ra ngoài chơi, bị những sợi dây đay siết chặt, cô mới biết mình bị trói. Lúc này, tôi không chỉ đau đớn về thể xác mà cả tâm hồn. Còn gì cay đắng, nhục nhã hơn khi một con người bị cầm tù, khát vọng sống bị dập tắt ngay khi khát vọng ấy bùng lên sau bao lâu bị thực tế cuộc đời vùi dập, chai cứng. Tôi say khi tôi tỉnh. Một chút rượu. Có lúc tôi thấy trong đầu mình văng vẳng tiếng sáo gọi bạn tình, có lúc lại trở về với thực tại, buộc chặt bằng những sợi dây đay chằng chịt quanh mình. Nhưng diễn biến tâm lý ngày càng đi ngược chiều so với lúc đầu. Tôi ngày càng say, càng tỉnh, càng đau. Khát vọng ra đi dần tắt lịm, ngọn lửa tiềm ẩn sóng năng tàn lụi rồi vụt tắt. Để rồi sáng hôm sau, tôi suy sụp hoàn toàn cả về thể xác lẫn tinh thần. Tôi trở về làm mẹ của đời thường, là “con rùa nuôi góc nhà thống lý Pá Tra”.

Mị là nhân vật trung tâm của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, qua diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân, tác giả đã thổi bùng và thổi bùng lên ngọn lửa sức sống tiềm ẩn trong nhân vật Mị. mình, thể hiện khát vọng và sức sống mãnh liệt của người dân miền núi Tây Bắc.

Đây là bài tập làm văn Phân tích nhân vật của tôi , Baitaplamvan chúc các bạn học tốt!

Xem thêm: mg + hno3 ra nh4no3